Ảnh: ANH QUÂN
Ảnh: ANH QUÂN

Chiếc đèn ông sao mùi tre ngâm

Trung thu bây giờ đã khác nhiều. Phố xá rực rỡ ánh đèn điện, lồng đèn chạy pin sáng nhấp nháy, tiếng nhạc phát ra vui nhộn. Trẻ con giờ cầm đèn đi rước cũng chẳng lo tắt nến giữa đường. Nhưng cứ mỗi lần nhìn thấy ánh sáng ấy, lòng tôi lại dấy lên một nỗi bồi hồi khó tả…

Hồi đó, tôi còn nhỏ, quê tôi nghèo. Chỉ cần bố làm cho một chiếc đèn ông sao là có thể dùng được vài năm liền. Với tôi, chiếc đèn ấy là cả một gia tài. Tôi vẫn nhớ như in hình ảnh bố ngồi trên tấm phản gỗ, tay cầm con dao nhỏ, khéo léo trẻ những thanh tre già. Tre được ngâm dưới bùn từ trước, mềm dẻo, không mối mọt, tỏa ra mùi của đất, của nước, của ruộng đồng quê mùa. Mùi ấy, với người chưa từng sống ở nông thôn có thể khó chịu nhưng với tôi nó là hương ký ức.

Bố vót từng thanh tre mảnh mai, vừa đủ dẻo để uốn mà không gãy. Ông uốn từng thanh, buộc từng sợi dây thép nhỏ, chống năm que tre lên tạo thành độ dầy cho khung đèn dần nở ra thành một ngôi sao năm cánh đều tăm tắp. Tôi lúc đó còn là đứa trẻ con háo hức, chỉ được phụ những việc lặt vặt như giữ khung cho bố hay cắt dây thép. Bố cười hiền: “Đèn nhỏ thôi, cho con cầm đỡ nặng tay”.

Hôm nào mẹ lên chợ thị trấn, tôi lại lon ton theo sau. Hai mẹ con đèo nhau trên chiếc xe đạp cũ kỹ từ thời bao cấp, khung sắt đã bong sơn, bàn đạp lạo xạo. Chiếc xe ấy đã theo mẹ đi khắp các phiên chợ mà bền bỉ. Lên chợ, mẹ mua giấy mầu, mua những dải dây óng ánh, vài tờ giấy bóng mỏng manh. Với tôi lúc ấy, đó là kho báu của một mùa Trung thu.

Tối về, cả nhà ngồi trên chiếu giữa nhà. Bố đã xong khung đèn, tôi ngồi ngắm mẹ cắt giấy. Từng tờ giấy được gấp khéo léo, rồi mẹ cắt nhẹ các góc, mở ra thành bông hoa giấy bé xíu. Những mảnh giấy mầu sắc được mẹ cắt tỉa dán dọc khung viền năm cánh. Bề mặt đèn mẹ dán một lớp giấy trắng mỏng, để khi thắp nến sẽ sáng rực trong đêm. Đôi tay mẹ thoăn thoắt, ánh mắt mẹ dịu dàng. Vừa làm, mẹ vừa kể về Trung thu thời bà còn nhỏ, khi chỉ có vỏ quả bưởi khoét ruột làm đèn, chẳng có bánh kẹo như bây giờ. Tôi ngồi nghe, mắt dõi theo từng động tác, tai lắng từng lời kể, lòng như có một ngọn lửa ấm áp đang cháy.

Đêm muộn, đèn đã xong, còn ướt hồ vài chỗ. Mẹ bảo: “Chờ mai phơi nắng, khô sẽ căng giấy, đẹp hơn”. Tôi nâng niu chiếc đèn như một báu vật, mùi hồ quyện với mùi tre ngâm bùn dịu nhẹ, mùi giấy mới, ngửi mãi không chán. Tôi nôn nao chờ đêm rằm, được cùng các anh chị trong làng rước đèn.

Trung thu làng tôi vui lắm. Sân làng tôi khi đó còn rất rộng, mấy chiếc bàn dài xếp san sát, bánh kẹo bày ra đủ loại kẹo gôm, bánh quy, kẹo lạc. Tôi thích nhất là kẹo gôm, nhai dai dai, ngọt dính cả đầu lưỡi. Đêm trăng sáng như gương, đoàn rước đèn nối đuôi nhau. Đi đầu là những anh lớn khiêng trống, gõ thình thình, theo sau là chiếc đèn ông sao khổng lồ lấp lánh. Chúng tôi vừa đi vừa hát vang bài “Chiếc đèn ông sao”, tiếng hát hòa cùng tiếng trống, cùng tiếng cười, vang khắp con đường làng. Đêm Trung thu ấy đẹp đến mê mẩn. Những ngọn nến lung linh trong chiếc đèn ông sao như những ngôi sao thật sự đang rơi xuống trần gian. Ánh trăng rằm trải dài trên đường đất, bóng trẻ con in xuống thành từng vệt dài.

Giờ đây, nhìn những chiếc đèn điện lung linh trên phố, tôi thấy trong lòng mình vẫn còn nguyên một khoảng trống. Khoảng trống ấy chứa mùi tre ngâm bùn, mùi hồ dán giấy, ánh nến lung linh.