Ít ai ra đến gò Mang. Gò xa làng, hoang vu, rờn rợn vì nó là khu nghĩa địa. Mộ mai táng, cải táng xen lẫn mộ xây quét vôi trắng nhấp nha nhấp nhô. Lũ trẻ ít thả trâu bò ở đây, chúng thà thả mãi ngoài đê xa một chút, hay đi cắt cỏ, chứ chẳng mấy đứa dám ra đây.
Mẹ con bà xin khoán một khu ruộng trũng bên chân gò, đào ao thả cả, cấy lúa, nuôi nấng nhì nhằng. Không làm giàu nổi thì cũng có cái đổ vào nồi, chỉ sợ không có sức. Cứ xậm xụi, cá tép, rau dại mọc đầy, lúa cấy dưới ruộng…
*
Xuân hềnh hệch giữa nhà, rồi lại cười, lại khóc, giằng xé cào cấu áo quần. Bà Nguyệt buông cái rổ rau xuống, chạy từ cầu ao vào ôm lấy con. Xuân lại lên cơn, cứ lên cơn lại thế. Nên bà không dám đi đâu xa, vì sợ những lúc như thế không có ai, Xuân sẽ đập phá hết, rồi ngộ nhỡ nó nhảy xuống ao mà chết đuối ra đấy thì khốn.
Chỉ có bà Nguyệt và thằng Đại con trai Xuân là có thể dỗ được Xuân những lúc ấy. Thằng Đại không hiểu có “võ” gì, mà khi mẹ nó lên cơn nó chỉ cần gọi “mẹ ơi”, rồi lao lại ôm ngang bụng là mẹ nó dừng ngay, dẫu đang la hét phá phách thế nào cũng im bặt. Mẹ nó lại vuốt ve, lại lẩm nhẩm À ơi… Cái có bay lả bay la… ờ…ờ… ơ…
Thường Xuân cứ tha thẩn cả ngày quanh nhà, có khi lang thang cả buổi trên gò Mang, đếm đi đếm lại những ngôi mộ, rồi lúc nào mỏi chân, lại ngồi ở cái miếu giữa nghĩa địa, dưới cây si già. Ở đấy râm, gió thổi tứ bề, có hôm lại được ăn thỏa thích. Đấy là hoa quả, bánh kẹo nhà ai đó thắp hương ở miếu từ hôm trước, khi nhà có việc ngoài nghĩa địa. Cứ có người thắp hương là trong miếu bao giờ cũng có ít lộc để lại.
*
Nguyệt vào hàng ưa nhìn nhất của làng Dương Thủy. Mười bảy tuổi đã là đội trưởng sản xuất. Chẳng chịu nhận lời yêu ai, cô nhất quyết chờ Trung về. May mắn, Trung là một trong những người hiếm hoi trở về từ mặt trận. Một đám cưới giản dị diễn ra, rồi những đứa con ra đời theo năm tháng.
- Lần này chắc sẽ không sao đâu.
Trung ngồi sát bên vợ, ánh trăng mùa hạ vằng vặc trải lên sân nhà.
- Nhưng em sợ, như…
- Em đừng nghĩ ngợi lung tung. Anh nghĩ vợ chồng mình ăn ở chẳng đến nỗi nào, chắc rồi Trời, Phật sẽ thương.
- Nhưng…
- Không - Trung lấy tay khẽ đặt lên miệng vợ - Lần này sẽ không sao cả…
Đã ba lần Nguyệt sinh nở, nhưng chỉ có cái Xuân còn ở lại với bố mẹ, chị em nó, đứa thì bị bệnh tim nặng ngay từ khi sinh ra, đứa lại mắc máu trắng bẩm sinh. Bao nhiêu tiền của, đất vườn đều lần lượt ra đi để lo chạy chữa cho con, ngay cả Nguyệt, cô cũng phải bỏ cả công tác, ở nhà lo cho con, thế mà...
Cái Xuân, lớn thì có lớn đấy, nhưng chẳng được như con nhà người ta. Cứ dại dại ngây ngây, nhất là cái việc học hành, chữ nghĩa vào đầu tí nào thì ra bằng sạch ngay tí đấy, nên chỉ có cố cho nó biết đọc, biết viết.
*
Chẳng còn cách nào khác, Nguyệt phải ra ngoài này để làm trại. Chẳng mong có bát ăn, bát để, nhưng cũng chẳng đến nỗi chết đói. Hơn nữa ra ngoài này bớt ồn ào, biết đâu bệnh tình của Xuân lại đỡ hơn! Mà ở đây nếu nó có lên cơn thì cũng giữa mênh mông trời đất, nào có ảnh hưởng đến ai.
Ra ngoài trại, bà dựng một cái nhà nhỏ. Nói là nhà nhưng cũng chẳng hơn gì cái lều trông vịt, cũng chỉ là gạch non xây bằng vữa vôi, lợp ngói phibrô xi-măng, chẳng chát chít gì, cửa giả cũng chỉ qua quýt tạm bợ. Chung quanh là cánh đồng chiêm trũng, cỏ mọc um tùm.
- Chỉ có con với bầm, đắp bao giờ cho nổi bờ mà cấy lúa.
Dũng, thằng con út bà Nguyệt, vừa thục sâu cái thuổng xuống bùn, vừa nói với mẹ.
- Cứ từ từ làm dần khắc được - Bà Nguyệt chống cái xẻng nhìn.
- Nhưng biết bao giờ mới được, giá như có tiền mà thuê thì…
- Thế thì còn gì bằng. Thôi mẹ con mình cứ chịu khó vậy.
- Lại còn phải đào cả ao nữa - Thằng Dũng xem chừng uể oải.
Nó, thằng Dũng con út bà Nguyệt, may mà bà cố được nó. Cũng là giọt máu cuối cùng ông Trung để lại cho bà trước khi ra đi sau nhiều năm bị di chứng từ chiến trường hành hạ. Dũng khỏe mạnh, lại lành hiền, phải cái rất sợ những chỗ nhiều người. Nếu không có việc gì cần thiết thì cả ngày đấm vào miệng cũng chẳng nói nửa câu.
Dũng có may mắn hơn chị, nhưng cố lắm cũng chỉ học được gần hết cấp hai. Hơn ba mươi tuổi, mà cứ chờ, mẹ bảo gì thì mới làm, chứ chẳng chủ động được là mấy.
- Thế anh chẳng lo tìm vợ đi còn gì? - Bà Nguyệt sốt ruột giục Dũng.
- Tìm đâu?.
- Trong làng thiếu gì con gái. Anh chẳng chịu tìm, cứ rù rù ở nhà. Không lẽ con gái nó tự tìm đến anh chắc?
- Ồi giời!
Dũng bỏ đi chỗ khác. Cứ ai nói đến chuyện vợ con là Dũng lại lảng, không thì lại lẩm bẩm: Có mà ma nó thèm ròm ra cái nghĩa địa này… Kệ tất, Dũng cứ thế. Làm quần quật cả ngày, tối đến là lăn ra ngủ, chẳng bao giờ ra khỏi nhà, khỏi cái gò Mang vào buổi tối.
*
Đêm phập phồng, gió đông thổi rin rít, tấm liếp cửa sổ đập phành phạch, tháng cuối năm buốt thấu sương. Bà Nguyệt nằm chập chờn không sao thành giấc, hình như có ai đó ở phía ngoài, rõ có tiếng người. Bà định ngồi dậy soi đèn, nhưng không sao ngồi dậy nổi, cố lắng nghe, thì lại chẳng thấy gì nữa. Hình như có mùi hương trầm ở đâu phảng phất, nhưng hôm nay có nhà ai cải táng đâu? Hay ai ra miếu để thắp hương gì đấy, nhưng giờ này thì…? Rồi cố lắng, bà Nguyệt lại chẳng thể nào ngửi thấy mùi hương trầm đâu nữa.
Nằm một lúc, đang mơ màng, bà lại thấy như có người gọi ngoài cửa sổ.
- Bà Nguyệt ơi!
- Ai? - Bà quát.
- Tôi. Bà khẽ chứ.
- Nhưng ông là ai? Sao gọi tôi vào giờ này?
- Bà không biết tôi đâu.
- Vậy ông cần gì, mà lại gọi tôi đêm hôm thế này?
- Bà cứ bình tĩnh - Tiếng đàn ông nói ngoài cửa sổ không được rõ lắm vì gió thổi rất mạnh - Tôi muốn đến nói với bà một việc rất quan trọng.
- Việc gì? - Bà Nguyệt sốt ruột.
- Bà nghe đây - Người bên ngoài cố nói dõng dạc từng tiếng - Bà nhất định không được nghe người ta xui mà làm việc thất đức.
- Thất đức - Bà Nguyệt hỏi lại.
- Đúng, bà không được nghe ai, để bắt cái Xuân bỏ cái thai.
- Cái thai! Sao ông biết? Mà ông là ai?
- Đúng. Đó là một việc vô lương tâm, bà không thể lường nổi cái nghiệp báo của nó đâu!
- Nghiệp báo.
Bà Nguyệt choàng tỉnh, ngồi bật dậy, bấm đèn pin, đẩy tấm liếp ra soi. Ngoài trời đen kịt, làm gì có ai, chỉ tiếng gió rít. Dưới ánh đèn pin, trong màn sương đêm chỉ thấy mấy ngôi mộ trắng lấp lóa.
*
Người làng cứ thắc mắc với nhau, không hiểu bằng cách nào, cái con Xuân dở dồ, dở dại lại có chửa được? Nghĩa địa làng Dương Thủy có từ bao giờ, cái miếu ở giữa nghĩa địa cũng thế. Chẳng ai biết, chỉ thấy các cụ nói, là có từ rất lâu rồi, mà cái miếu ấy thiêng lắm và… nếu một mình thì chẳng ai dám lại gần, hay đến thắp hương. Có chăng cả làng chỉ có mình Xuân dở là dám thơ thẩn một mình ở đó.
Có thể ngài muốn cho Xuân một nơi nương tựa, khi tuổi cao, khi mẹ nó khuất núi. Nhiều người trong làng nghĩ thế. Đấy là sau hôm người ta tìm thấy Xuân thu lu nằm dưới một cái hố mộ vừa cải táng, nhưng chưa kịp lấp lại. Sau đó Xuân ốm nặng, nằm bẹp trên giường, người nóng như hòn than, miệng mê sảng suốt mấy ngày liền. Rồi khỏi ốm và cứ thế cái bụng của nó lùm lùm nổi lên.
*
Có tiếng chó sủa sau bếp, bà Nguyệt cố quấy nốt nồi cháo cho cháu, rồi ra xem con chó cắn gì mà dữ thế. Từ chiều qua thằng Đại lên cơn sốt, người lúc nào cũng nóng ran, chẳng ăn uống được gì. Chắc tại sáng qua mưa, nó dầm mưa đi đặt nơm cá nên về bị cảm.
Nhà chỉ còn hai bà cháu. Cậu Dũng thằng Đại theo cánh thợ nề trong làng đi làm xa đã cả tháng nay. Mẹ nó gần đây bệnh lại phát, phải gửi lên ở nội trú trên viện. Thằng Đại một buổi đi học, một buổi ở nhà giúp bà đi thả bò, hay làm vài ba việc vặt gì đó. Từ chiều qua nó ốm, bà Nguyệt cứ bấn cả lên, muốn đưa nó vào bệnh xá nhờ bác sĩ khám, nhưng ngặt nỗi chẳng gọi nhờ được ai. Bà chỉ còn biết chườm khăn ướt, giã lá nhọ nồi đắp cho cháu, rồi cố ép nó ăn chút cháo.
Bà nhấc nồi cháo xuống, chạy ra đằng sau bếp, tiếng chó đã bớt sủa, nhìn quanh không thấy ai. Bà quát con chó vẫn đang gâu… gâu…
- Im ngay, có ai nào.
Chợt bà Nguyệt nhìn thấy một túi bọc nylon gần rệ rào, bà lại xem cái gì. Cầm lên, thì ra là một túi trứng.
- Lại trứng vịt - Bà Nguyệt lẩm nhẩm.
Từ ngày Xuân có bầu thằng Đại, thỉnh thoảng bà lại thấy những bọc trứng vịt như thế ở trong hàng rào nhà mình. Lúc đầu bà tưởng của ai đó đi làm đồng mua của mấy anh đi thả vịt, rồi về để quên, hay của bác cả gái giấu bác trai đem ra cho.
Bà cầm túi trứng lên, nhìn quanh một lần nữa, nhưng vẫn không thấy ai. Phóng tầm mắt ra xa, cả cánh đồng, chỉ mỗi đàn vịt giữa đồng. Đó là đàn vịt của anh Tùng câm ở làng Hòa Nguyên bên kia cánh đồng. Tùng bị câm, lại không nghe nổi, người hiền như cục đất, nhưng lại là một “tay” chăn vịt cực giỏi, vịt thì đẻ mắn, lại béo mỡ màng nên chẳng có mà bán.