Ông Lê Giản (áo đen) ngồi bên trái Bác Hồ, bên phải là đồng chí Phạm Hùng.
Ông Lê Giản (áo đen) ngồi bên trái Bác Hồ, bên phải là đồng chí Phạm Hùng.

Tình bạn từ lao tù Sơn La đến Thủ đô Hà Nội

Chính ở nơi sơn lâm cùng cốc khổ cực ấy đã nảy sinh một tình bạn đặc biệt giữa hai người tù cộng sản: ông Hồng Kỳ tức Đoàn Nguyên Nhật và ông Lê Giản tức Tô Gĩ. Qua những buổi trò chuyện khi lao động, sinh hoạt Đảng, họ trở thành đôi bạn tù thân thiết.

1. Những ai đã từng đến tham quan nhà tù Sơn La nơi rừng thiêng nước độc xưa đều kinh hoàng về sự tàn ác của thực dân Pháp. Phòng giam là những cái hố nhỏ vài mét sâu hoắm trong lòng đất, với bốn bức tường xi-măng lởm chởm, khi mùa đông đến thì giá buốt và lạnh lẽo, chung quanh là rừng thẳm mênh mông. Từ trên cao chỉ có một cái lỗ nhỏ lờ mờ sáng đủ để tù nhân có thể nhìn thấy nhau. Ngồi như vậy với đôi chân trong cùm là một sự cô lập tuyệt đối về tinh thần và vật chất đối với những người tù cộng sản. Thật đáng ngạc nhiên, trong một hoàn cảnh như vậy, các tù nhân vẫn tổ chức sinh hoạt Đảng, tổ chức lớp học lý luận, lớp về văn hóa, và động viên chăm sóc những người ốm nặng như đồng chí Tô Hiệu.

Hàng trăm tù nhân cách mạng từng bị giam giữ ở đây, có những trường hợp mấy anh em cùng ngồi tù như Lê Đức Thọ, Mai Chí Thọ (anh em ruột); Tô Hiệu, Tô Gĩ, Tô Quang Đẩu (ba anh em họ). Sau Cách mạng Tháng Tám, nhiều tù nhân cộng sản trở thành những lãnh đạo chủ chốt trong chính quyền mới của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa.

Vào năm 1941, Pháp tập trung một số tù chính trị đặc biệt nguy hiểm (trong đó có Lê Giản) đưa đi lưu đày ở Madagascar. Trong nhóm này có nhiều tên tuổi nổi tiếng như nhà cách mạng Hoàng Đình Rong, Phan Bôi, Trần Hiệu... Ở Đông Dương tình hình ngày một căng thẳng hơn khi phát-xít Nhật nhảy vào khiến cho dân ta một cổ hai tròng. Năm 1943, ông Hồng Kỳ bị giải về quản thúc tại địa phương. Ở quê nhà, ông Hồng Kỳ bắt liên lạc với cơ sở và tiếp tục tham gia công tác. Ông được giao phụ trách Việt Minh ở một số vùng ven thị xã nhằm nâng cao phong trào cách mạng ở Cao Bằng.

Ông Hồng Kỳ quê ở Cao Bằng, còn ông Lê Giản quê ở Văn Giang (Hưng Yên). Số phận của ông Lê Giản cũng thay đổi bất ngờ. Tháng 3/1944, quân Anh đánh chiếm Madagascar và lật đổ chính quyền Pháp thân phát-xít nên nhóm tù cộng sản được trả tự do. Vì nước Anh trong phe đồng minh nên nhà cầm quyền có ý chọn các tù nhân cộng sản ở Madagascar đi huấn luyện tình báo đưa về Bắc Việt Nam để theo dõi tình hình quân đội Nhật. Bảy người (trong đó có Lê Giản) được sang căn cứ tình báo tại Can-quyt-ta (Ấn Độ). Những người tù cho rằng, đây là con đường duy nhất có thể lợi dụng nước Anh để sớm trở về với cách mạng nên đồng ý.

172.jpg
Lễ gắn biển phố Lê Giản.

2. Sang tháng 10, nhóm đầu tiên chuẩn bị nhảy dù về Việt Nam là ông Hoàng Đình Rong và Lê Giản. Họ phải bay đến lần thứ ba mới nhảy dù thành công. Hai lần trước thời tiết xấu máy bay B29 phải quay về. Một đêm cuối tháng 10, ông Lê Giản và Hoàng Đình Rong được thả xuống Cao Bằng.

Đêm tối, gió thổi mạnh, dù của ông Lê bay lạc phương hướng và hạ không đúng nơi quy định. 3 giờ sáng, ông rơi xuống một đầm lầy, lúng túng thu dọn dù và tìm cách thoát lên bờ. Sương mù trắng xóa khiến ông không biết mình đang ở khu vực nào. Bỗng ông thấy trước mặt có ánh đèn pin và tiếng lao xao rồi 4 người cầm gậy gộc ở đâu hiện ra. Mừng quá, ông đánh tiếng và gọi họ để hỏi xem đây là đâu. Hai người trong bọn họ cầm đèn pin tiến về phía ông Lê Giản nhưng không trả lời. Ông Lê rút súng ra đề phòng. Nghe tiếng ông người kia đột nhiên mừng rỡ nói: Có phải Tô Gĩ không?

Thì ra ông Hồng Kỳ sau khi từ nhà tù về, được giao phụ trách Việt Minh vùng này. Từ mấy tháng trước, ông đã được cấp trên thông báo có khả năng người của ta sẽ nhảy dù xuống đây (do ông Hoàng Đình Rong báo về qua cơ sở cách mạng). Nửa đêm, ông Hồng Kỳ nghe tiếng máy bay ì ầm, rồi truyền đơn rơi trắng xóa, nên tỉnh dậy đi xem động tĩnh. Và bất ngờ gặp lại người bạn thân xưa, vui không tả xiết.

Trong ba-lô 50 kg của ông Lê có trang bị đầy đủ nhu yếu phẩm và cả rượu rum. Họ cùng nhau ăn uống và ông Hồng Kỳ thông báo vắn tắt cho ông Lê tình hình cách mạng trong cả nước cũng như tại Cao Bằng. Sau đó, họ tìm được ông Hoàng Đình Rong cách đó không xa, cả 6 người đưa nhau về lán trong rừng nghỉ tạm và ông Hồng Kỳ cho giao liên báo cáo Tỉnh ủy Cao Bằng.

Ba ngày sau, hai tù nhân từ Madagascar được gặp đồng chí Vũ Anh và viết báo cáo cho Bác Hồ lúc này đang ở Pác Bó. Thời gian sau, ông Lê được bàn giao nhiệm vụ xây dựng sân bay Lũng Cò (tỉnh Tuyên Quang) để đón máy bay của đội tình báo Mỹ “Con Nai” xuống. Và trong thời gian người Mỹ đến thì ông Lê cũng làm công tác phiên dịch để huấn luyện các chiến sĩ.

Ông Lê đặt tên người con trai út của mình là Tô Hồng Kỳ (sinh năm 1959) để kỷ niệm tình bạn sâu sắc giữa hai người. Chị Tô Việt Hồng, con gái ông Lê cho biết, chị có may mắn là người chăm sóc bố mẹ, thỉnh thoảng đưa ông Lê Giản tới nhà ông Hồng Kỳ chơi khi hai ông đã về hưu nên biết được nhiều kỷ niệm thời trai trẻ của các cụ.

3. Gần tháng 8/1945, Nhật đầu hàng vô điều kiện. Khởi nghĩa giành chính quyền thành công ngày 19/8 tại Hà Nội.

Ngày 2/9/1945, Hồ Chủ tịch đọc Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh nhà nước cộng hòa công nông đầu tiên ở Đông Nam Á.

Chính quyền Cách mạng non trẻ mới ra đời thật bề bộn. Ở trong nước thì bọn tay sai thực dân Pháp lăm le trở lại, ở phía bắc thì lính Tàu tưởng và các đảng phái Việt Nam Quốc dân đảng lợi dụng gây rối. Lúc này ông Lê Giản được giao là Tổng Giám đốc Nha Công an Trung ương, còn ông Hồng Kỳ là Chủ tịch tỉnh Cao Bằng, một trong những nơi đầu sóng ngọn gió. Công việc bận bịu vô cùng nhưng hai ông luôn biết tin nhau qua thư từ, bạn bè đồng đội hoặc có dịp công tác gặp nhau. Trong kháng chiến tình bạn giữa hai ông vẫn nồng hậu thân mật như những năm còn ở tù.

Hòa bình lập lại, ông Lê chuyển sang làm Phó Chánh án Tòa án tối cao, còn ông Hồng Kỳ làm Bí thư Cao Bằng rồi về Hà Nội làm Viện trưởng thi đua khen thưởng. Cuối đời, hai cụ lại cùng ở Hà Nội và thường xuyên đến nhà nhau hàn huyên cùng nhớ lại năm tháng chiến đấu và bạn tù thời xa xưa.

Đầu năm 1946, anh trai của Bác Hồ là ông Cả Khiêm ra thăm Bác. Do tình hình an ninh trật tự chưa ổn định và để an toàn, ông Lê Giản đã thay Bác ra ga Hàng Cỏ đón ông Khiêm rồi đưa về nhà riêng của mình lúc đó ở số 1 Trần Bình Trọng. Đến tối xong việc, Bác Hồ đã đến đây thăm và hàn huyên với anh trai của mình sau một thời gian dài xa cách.

Làng Xuân Cầu - Văn Giang là quê hương của nhiều nhà hoạt động cách mạng và văn hóa nổi tiếng như: Tô Hiệu, Lê Văn Lương, Nguyễn Công Hoan rồi Tô Gĩ, Tô Quang Đẩu, Tô Ngọc Vân, Nguyễn Công Mỹ, Tô Quyền, Nguyễn Tài và hiện nay là Tổng Bí thư Tô Lâm. Chị Tô Việt Hồng cho biết, ông Lê Giản (Tô Gĩ) và ông Tô Quyền (thân sinh Tổng Bí thư Tô Lâm) là họ hàng cùng làng cùng xã, hàng năm vào các ngày giỗ, ngày kỷ niệm thành lập ngành Công an 19/8, Tổng Bí thư (nguyên là Bộ trưởng Công an) thường xuyên đến gia đình thắp hương tưởng niệm ông Lê Giản, vừa là bậc cao niên trong họ, vừa là nhà lãnh đạo tiền bối của ngành Công an.

Vừa qua, UBND thành phố Hà Nội quyết định đặt tên phố Lê Giản cho một đại lộ ở phường Đại Mỗ và cũng là dịp kỷ niệm 80 năm thành lập ngành Công an và 80 năm khai sinh nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa. Hiện tại, phần mộ của ông Lê Giản an táng tại nghĩa trang Mai Dịch, cách đó không xa là phần mộ của ông Hồng Kỳ. Mỗi mùa xuân, trên mộ các cụ hoa đào, hoa mận nở rực rỡ thơm ngát như ở cánh rừng Sơn La cách đây hơn 80 năm, khi họ bên cạnh nhau, thề cùng cống hiến cuộc đời cho Độc lập-Tự do của Tổ quốc.

Xem thêm