Hiệp cho biết, nhóm truyền thông của anh đã và đang chuẩn bị cho cuộc trưng bày tiền cổ, lấy mốc thời gian “Việt Nam Dân chủ Cộng hòa 1945”. Theo tôi, đây là một cuộc trưng bày rất thú vị dành cho người thưởng lãm trong nước và quốc tế.
1. Sài Gòn cuối tuần thức dậy trong làn sương nhẹ, tiếng xe máy lướt qua như nhịp thở quen thuộc của thành phố không bao giờ ngủ. Tôi và đạo diễn Xuân Phước đến một quán cà-phê với tên gọi có vẻ hoài niệm “Tiệm cà-phê xưa Nam Kỳ” ở phường Bình Thạnh. Quán cà-phê ven đường 24A D5, nơi ánh nắng đầu ngày len lỏi qua tán cây, rọi xuống mặt bàn gỗ cũ kỹ.
Huỳnh Minh Hiệp lần lượt mở chiếc hộp gỗ và những cuốn album cẩn thận như đang nâng niu một báu vật. Trong đó là những đồng xu bằng nhôm, đồng, và những tờ giấy bạc đã ngả màu thời gian. Nhưng nổi bật nhất là đồng tiền đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - thường được gọi trìu mến là “đồng tiền Bác Hồ”. Đó là những đồng, hào bằng bạc và bằng giấy được phát hành từ cuối năm 1945, khẳng định nền tài chính độc lập của một quốc gia vừa giành được tự do.
Anh cho biết: Ngày 2 tháng 9 năm 1945, Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời. Mặc dù phải đối đầu về quân sự và chính trị với thực dân Pháp, ngày 31/1/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 18B cho phép ban hành đồng bạc giấy Việt Nam từ vĩ tuyến 16 trở vào. Ngày 30/11/1946, giấy bạc mới ra đời. Đây là giấy bạc Việt Nam đầu tiên ra đời sau gần 100 năm Pháp đô hộ. Mặt trước: Quốc hiệu Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh - mặt sau: hình ảnh về công, nông, binh có dòng chữ “giấy bạc Việt Nam”, hoặc không có dòng chữ đó. Giá trị đồng bạc được ghi nguyên chữ Việt Nam, Miên, Lào; số dùng là số Ả Rập. Tuy vậy, cũng có loại bạc mà bốn chữ “giấy bạc Việt Nam”, được ghi ở mặt trước và Quốc hiệu được ghi thêm ở phía sau. Hình ảnh, có tờ bạc nêu lên ba mục tiêu chính của cuộc cách mạng: chống giặc dốt, chống giặc đói và chống giặc ngoại xâm. Đặc biệt trên tờ giấy bạc này, người ký tên là Bộ trưởng Tài chánh (Phạm Văn Đồng, Lê Văn Hiến) và Giám đốc Ngân hàng Trung ương. Do đó loại giấy bạc này còn được gọi là “Bạc tài chánh”, nhân dân thường gọi là “Bạc Cụ Hồ”…

Ở Nam Bộ vẫn phát hành Giấy bạc Việt Nam (in tại chỗ), mẫu mã khác giấy bạc Trung ương với chữ ký của Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến Hành chánh Nam Bộ, đại diện Bộ trưởng Tài chánh Phạm Văn Bạch và Giám đốc Ngân khố Nam Bộ, đại diện Tổng Giám đốc Ngân khố Quốc gia Nguyễn Thành Vĩnh. Mặt trước tờ giấy bạc có ghi dòng chữ nhằm mục đích răn đe: “Theo sắc lệnh của Chánh phủ Việt Nam, kẻ nào làm giả hoặc có hành động hủy hoại tờ giấy bạc của Chánh phủ sẽ bị trừng trị theo quân pháp…”.
Có tờ bạc lại cho biết khu vực lưu hành hạn chế: chỉ lưu hành trong các tỉnh Long-Châu-Sa (Long Xuyên, Châu Đốc, Sa Đéc...).

Theo Sắc lệnh số L02/SL ngày 1/11/1947 của Chính phủ Trung ương, Ủy ban Kháng chiến Hành chánh Nam Bộ ra Nghị định số 267/NĐ cho lưu hành “Phiếu tiếp tế” và “Tín phiếu“ của từng tỉnh, liên tỉnh với kiểu dáng khác nhau và chỉ có giá trị lưu hành trong từng địa phương. Các tỉnh có tín phiếu: Trà Vinh, Vĩnh Trà, Thủ Biên... Các tỉnh có phiếu tiếp tế: Sóc Trăng, Vĩnh Long, Rạch Giá, Hà Tiên, Cần Thơ, Bến Tre...
Tín phiếu và phiếu tiếp tế có tính chất và giá trị lưu hành như nhau (mặc dù có in rõ là Tín phiếu hay Phiếu tiếp tế trên tờ bạc, đều có chữ ký của Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến Hành chánh Nam Bộ và Trưởng ty Ngân khố tỉnh sở tại, đều ghi rõ chỉ được lưu hành trong tỉnh...). Tín phiếu và Phiếu tiếp tế được coi là Giấy Bạc Việt Nam có tính chất địa phương, có chức năng chi trả đầy đủ ngang với giấy bạc Trung ương và giấy bạc toàn Nam Bộ.

“Ban ấn loát đặc biệt” do kỹ sư Ngô Tấn Nhơn phụ trách đóng ở Đồng Tháp cùng các họa sĩ Huỳnh Văn Gấm, Sáu Hộ , Lê Ba, Lê Thiên, Trần Ngọc Thanh..., đã cho ra đời những tờ giấy bạc Cụ Hồ khá đẹp - hình tượng hiên ngang của Nam Bộ kháng chiến.
Trên 200 tờ tiền “đắp nền” hay còn gọi là “tiền đóng dấu” của Ủy ban Kháng chiến Hành chánh Nam Bộ được chánh quyền sử dụng con dấu của chánh quyền địa phương đóng lên những tờ tiền Đông Dương xài tạm trong thời gian chờ “Giấy bạc Nam Bộ” ra đời. Chỉ sử dụng trong thời gian ngắn 1948-1952…

2. Huỳnh Minh Hiệp kể, để có được những đồng tiền ấy, anh đã rong ruổi khắp các vùng quê, từ bắc chí nam, gặp gỡ những người già, những người từng cất giữ chúng như một phần ký ức. Có đồng tiền anh đổi bằng cả tháng lương khi còn làm việc, có đồng anh được tặng như một lời tri ân cho lòng đam mê và sự kiên trì.
“Đây không chỉ là tiền”, anh nói, mắt nhìn xa xăm, “mà là chứng tích của một thời kỳ lịch sử. Là hơi thở của những ngày đầu độc lập, là giấc mơ về một đất nước tự do”. Tôi lặng người. Trong tay anh, những đồng tiền ấy không còn là vật trao đổi, mà là biểu tượng của lòng yêu nước, của sự hy sinh, của niềm tin vào tương lai.
Hiệp bảo, anh sưu tầm không phải để bán, mà để giữ. Để sau này, con cháu anh - và cả chúng ta - biết rằng có một thời, đất nước đã phải vượt qua muôn vàn gian khó để in được đồng tiền của chính mình. Đó là một tuyên ngôn không lời: Việt Nam đã đứng lên, đã là một quốc gia độc lập.
Buổi sáng ấy, cùng các bạn thưởng thức ly cà-phê đậm đà hơn bởi câu chuyện anh kể. Tôi rời quán, mang theo một cảm giác lặng lẽ nhưng đầy tự hào. Trong lòng tôi, những đồng tiền Bác Hồ không chỉ là kim loại hay giấy bạc, mà là lời nhắn gửi của lịch sử, là tấm lòng của một người với quê hương, là ánh sáng soi đường cho thế hệ mai sau.
Nếu một ngày bạn vô tình bắt gặp một đồng tiền cũ, hãy thử lắng nghe. Biết đâu, nó đang kể cho bạn một câu chuyện về tự do, về lòng yêu nước, và về một buổi sáng cà-phê Sài Gòn đầy cảm xúc.