Trong bối cảnh đó, tác phẩm văn học dường như trở thành lựa chọn thứ yếu. Làm thế nào để văn học vẫn giữ được vị thế xứng đáng trong dòng chảy của cuộc sống hôm nay?
Văn chương đối diện với thách thức thị trường
Giới sáng tác cũng như xuất bản không còn lạ lẫm với việc những cuốn sách văn học thường chỉ được in 1.000- 2.000 bản, song sức tiêu thụ vẫn hạn chế, ngay cả khi được giảm giá sâu nhằm kích cầu. Nhưng dù sao vẫn hơn nhiều cuốn sách chỉ in vài trăm bản, và cũng chỉ có thể biếu tặng, phát không, trong đó mảng sách lý luận phê bình và thơ là thiệt thòi nhất. Không mấy đơn vị phát hành mặn mà với mảng sách này.
“Viết vì đam mê” là điều mà nhiều người an ủi nhau và tự động viên bản thân. Nhưng không phải ai cũng đủ kiên nhẫn để nuôi niềm đam mê hao tốn thời gian, sức lực ấy, nhất là với người trẻ - khi mà câu chuyện cơm áo gạo tiền vốn “không đùa với khách thơ”. Bởi vậy nhiều tác giả, trong đó có cả những người đã gặt hái được thành công đã ít nhiều phân vân trước lựa chọn: có nên chiều theo thị hiếu công chúng để có được độc giả, chiếm lĩnh được thị trường, hay kiên định giữ bản sắc, phong cách sáng tạo cho dù điều đó có thể đồng nghĩa với việc tác phẩm ít được đón nhận? Bởi tác phẩm không đến được với người đọc thì người viết dễ mất động lực, giảm sút cảm xúc và sự nhiệt huyết.
Nhưng cũng cần sòng phẳng nhìn nhận rằng, thị hiếu vốn biến động, dễ bị chi phối bởi trào lưu nhất thời. Kiểm chứng trào lưu ngôn tình, đam mỹ rộ lên hơn chục năm trước cho thấy rõ điều này. Nên nếu chiều chuộng thị hiếu để có được những giá trị, lợi ích ngắn hạn thì người viết cũng đứng trước nguy cơ tự đánh mất tiếng nói riêng, tự làm nhạt nhòa tính độc đáo và nhanh chóng bị lãng quên. Thực tế đời sống văn học cho thấy, chỉ những tác phẩm được tạo nên từ sự lao động nghiêm túc, bền bỉ, từ tài năng đích thực mới có khả năng vượt qua sự sàng lọc khắc nghiệt của thời gian. GS Phong Lê từng bày tỏ: “Văn chương tuy không bổ ích trực tiếp cho người đời như cơm gạo, nhưng nó chính là một thứ đồ ăn về đường tinh thần của một dân tộc văn minh; nó chính là hồn của một dân tộc biết suy nghĩ”. Nhận định ấy gợi mở rằng, văn chương phải được nhìn ở tầm vóc dài hạn, ở khả năng nuôi dưỡng tâm hồn và trí tuệ, chứ không thể chỉ dừng ở tính thương mại nhất thời.
Đọc sách, thưởng thức văn học, là một nhu cầu căn bản của con người trong xã hội hiện đại, ngay cả khi nghe nhìn lên ngôi. Những bộ phim, chương trình giải trí có thể ngay lập tức mang lại cảm xúc mạnh mẽ, nhưng không thay thế được sự chiêm nghiệm sâu lắng, bồi đắp sự phong phú của ngôn ngữ, làm giàu trí tưởng tượng... mà văn học có nhiều ưu thế. Trong sự dịch chuyển của thị trường văn hóa, văn học có thể không tạo nên những hiện tượng đình đám như nhiều lĩnh vực khác song nó vẫn âm thầm kiến tạo những giá trị nền tảng, căn cốt cho một xã hội văn minh. Độc giả, dù ít hay nhiều, vẫn đi tìm ở văn học một không gian cho sự lắng đọng của những suy tư, chiêm nghiệm, nuôi dưỡng những khát vọng... Điều này rất có ý nghĩa trong bối cảnh cuộc sống hiện đại với guồng quay gấp gáp như hiện nay. Nhờ đó văn học có sức sống riêng, lâu bền, dù có thể không ồn ào, không rực rỡ hào quang.
Kiên nhẫn “gieo hạt”
Thị trường văn học hiện nay chứng kiến việc nhiều tác giả trẻ thích viết sách theo trào lưu để bán chạy, để nổi tiếng. Đồng thời cũng có những người viết chọn con đường lặng lẽ, chậm rãi, khẳng định tiếng nói riêng. Mỗi người có nhu cầu, mục tiêu khác nhau nhưng cần thấy rằng văn học không thể xa rời yêu cầu tối thượng đó là hướng đến Chân - Thiện - Mỹ. Độc giả, sau những trào lưu nhất thời, sẽ tìm về những tác phẩm thật sự có chiều sâu cảm xúc, truyền tải những thông điệp nhân văn. Chính sự độc đáo, khác biệt trong phong cách, và thế giới nghệ thuật riêng của mỗi người viết mới làm nên tên tuổi và vị thế của tác giả, tác phẩm. Người viết rất có thể phải đối diện với sự thờ ơ ban đầu của thị trường nếu tác phẩm không đáp ứng được nhu cầu của số đông. Nhiều tác phẩm được giải Nobel cũng từng chịu cảnh bị ngủ quên trên giá sách cho đến khi được tôn vinh. Con đường văn học chưa bao giờ là dễ dàng. Nhà thơ Hữu Thỉnh từng nhấn mạnh, làm văn chương khổ nhưng đó là con đường cần những người biết “nếm” chữ, nghĩa là phải có sự trải nghiệm, học hỏi, rèn luyện lâu dài mới có thể làm nên tác phẩm sống mãi với thời gian.
Văn học cần bền bỉ “gieo hạt” trong lòng người. Con đường để văn học chinh phục độc giả không thể là đường tắt. Sự nóng vội dễ sinh ra những sản phẩm thứ cấp. Để văn học giữ được vị trí của mình giữa đời sống biến động, cần giá trị đích thực, bởi vậy người viết cần nuôi dưỡng tâm huyết, kiên trì sáng tạo, chấp nhận những thiệt thòi. Cần xác định rõ, chỉ có tác phẩm hay, mới đủ sức chinh phục được độc giả.
Để người viết không đơn độc trong hành trình gian nan ấy, rất cần sự động viên khích lệ của cộng đồng thông qua việc ươm mầm, phát triển văn học đọc. Cần những cơ chế, chính sách và sự tạo điều kiện từ cơ quan chức năng đối với văn học, như nghiên cứu vận hành các quỹ hỗ trợ tài năng, triển khai các cuộc thi văn chương, các dự án nghệ thuật. Văn học cũng cần sự đồng hành của truyền thông trong việc lan tỏa giá trị, và sự hợp tác từ các đơn vị phát hành để mở đường cho tác phẩm đến với công chúng. Có được “bệ đỡ” vững chắc đó, văn học sẽ có thêm động lực và tự tin bước tiếp trên con đường chinh phục trái tim độc giả.
Nhiều tác phẩm văn học đã trở thành chất liệu cho điện ảnh, sân khấu, âm nhạc, tạo nên sức lan tỏa vượt biên giới. Chẳng hạn “Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh, “Cánh đồng bất tận” của Nguyễn Ngọc Tư... không chỉ gây tiếng vang ở trong nước mà còn được dịch và xuất bản ở nhiều quốc gia. Điều đó chứng minh rằng văn học, khi đạt tới chiều sâu tư tưởng và nghệ thuật, hoàn toàn có khả năng vượt qua ranh giới thị trường ngắn hạn, mà còn góp phần định hình diện mạo văn hóa dân tộc trong mắt bạn bè quốc tế.