Thỉnh thoảng, tôi lại được nhận quà của những người bạn núi. Khi là mớ cá suối, lúc là bó rau rừng hay ít đọt mây tươi mà họ vừa lên rừng hái về.
Mới tuần trước, vợ chồng người bạn Cơ Ho mang đến biếu tôi mấy quả dưa chuột, tiếng đồng bào gọi là play pung, một loại dưa truyền thống của họ. Những quả dưa to hơn mức bình thường, ăn rất giòn và có hương vị đặc biệt. Mỗi lần nhận quà của những người bạn rừng, tôi lại thêm nhớ những chuyến trèo đèo lội suối, những dịp được thưởng thức món ngon mà bà con trân quý hậu đãi.
Nhớ cái lần về với các buôn làng Cơ Ho ở dọc triền núi Brah Yàng. Chúng tôi đến buôn Krọt để nếm hương vị của mật ong rừng, đến buôn Tô Klăn, Bột Be để tìm lại dấu tích của thung lũng trăn và đồi dê tế thần thuở trước. Ở nhà ông K’Brít, câu chuyện giao tình giữa chủ và khách như càng sâu đậm khi ché rượu vơi dần bên món cà đắng nấu với cá khô và măng chua nấu với cá trê. Cả mầu sắc và mùi vị của hai món ăn này đều quyến rũ một cách kỳ lạ. Cà đắng (blơn prièn) là một loại cà dại mọc nhiều trên rừng, trên nương rẫy, bà con mang về trồng trong vườn nhà. Thông thường, cà đắng được nấu với cá khô, cá hấp hoặc tôm tép khô với cà thường, cà chua và gia vị ớt để nhấm rượu hoặc ăn cơm. “Chỉ cần một nắm cà đắng, một ít mắm ớt là trở nên xôm trò bởi loại cà này có thể ăn sống, có thể nhấm nháp đưa cay”, ông K’Brít đã nói như vậy. Bà Ka Brệuh vợ ông kể thêm, cách làm măng chua là lấy măng tươi giã dập với ớt rồi đem ủ trong chóe, măng tự lên men chua chừng hai tuần thì có thể dùng được. Miếng măng không nát mà giòn tan, cả nước lẫn cái đều có vị chua-cay-đắng-ngọt. Đó có lẽ là hương vị của rừng, là cái chất để tạo nên chính khí của đất trời và cốt cách con người xứ núi.
Tôi đã qua rất nhiều buôn làng, đến với nhiều triền núi, dòng sông Tây Nguyên và ở đâu cũng được thưởng thức những miếng ngon của rừng. Có bữa trưa đói quá, vào nhà bà Ka Lý ở vùng Lộc Bắc, thấy nồi cá suối nấu kiểu “thập cẩm” mà tôi không biết tên gọi là món gì đang sôi trên bếp, tôi đã lấy chiếc môi múc húp soàn soạt ngon lành. Bà già người Mạ ấy thấy thương nên bảo “để tao múc vào bát cho mà ăn, nhưng mà thôi, mày thấy ngon thì cứ ăn như thế”.
Giờ thì bà Ka Lý đã về với rừng Yàng nhưng bữa trưa ấy làm sao tôi có thể quên. Có bữa ở Ka La thì được đãi biăp pờrùng (rau nse nướng trong ống tre); có lần vào Đinh Trang Thượng được mời ăn kơnàp (con mối cánh), gòl (đọt mây), kasràt (cá muối chua). Cũng nhiều lần húp không còn một giọt tô canh cà đắng nấu với da trâu ở nhà già làng Kplin trên miền Lạc Dương. Có bữa ăn sung rừng muối với ớt cay xé lưỡi với ông Ya Loan ở vùng Tu Tra. Rồi hôm lễ Pơkhimocay đã xắn tay cùng nướng cá sông Đa Nhim thơm lừng với con cháu nhà ông Tou Prong Hiu ở plei Diom. Cũng ở xứ Diom, một plei thuần tộc Churu, khi lang thang trước ngôi nhà cụ bà Ma Hơng, tôi phát hiện ra một mảnh vườn nhỏ mọc đầy rau dền dại. Hỏi ra mới biết, người Churu giữ lại để lấy rau ăn vì rau dền dại vừa ngon, vừa sạch. Việc cũng thường thôi, nhưng dường như bảng lảng, vương vấn là cách ứng xử đối với mảnh rau dền…
Nhận mỗi món quà của những người bạn rừng, ăn mỗi món ngon của bà con buôn làng, tôi lại mường tượng ra hình bóng những người đàn ông đóng khố vác xà gạc, những người đàn bà lúi húi mang gùi. Họ cứ đi trên những con đường mòn lối, băng qua những dãy núi điệp trùng nhưng biết đâu đó, trong cái gùi của họ lại chẳng có một nắm rau rừng, vài ba con cá trê, cá trắng. Tôi cảm nhận trong tâm thức của họ đang hướng về lớp lớp người bao đời nay âm thầm sống gắn bó, thân thiện với rừng và biết nhận lấy phần quà quý giá mà thần linh ban tặng. Tất cả điều đó là nguồn mạch âm thầm rỉ rách, là những giai điệu thân thương trong bài ca văn hóa của một vùng đất mênh mông trên cao nguyên phía tây Tổ quốc.
Và tôi, tôi thấy mình thật may mắn khi được làm bạn, được giao tình với những người con của núi.