1. Bốn cô gái đồng môn Văn khoa Tổng hợp trở thành bốn người đồng chí từ năm 1971 cho đến mãi sau này, khi học xong khóa 4 Trường Bồi dưỡng Những người viết văn trẻ của Hội Nhà văn Việt Nam ở Hà Nội, đều cùng bước vào chiến trường. Đó là những năm kháng chiến chống đế quốc Mỹ ngày càng ác liệt. Bạn đọc sau này từng biết nhiều đến lứa sinh viên của thế hệ “tài hoa ra trận” với nhiều văn nghệ sĩ, nhà nghiên cứu thành danh. Nhưng hình như những câu chuyện của cánh “mày râu” có vẻ như được biết, được kể nhiều hơn với những Hoàng Nhuận Cầm, Phùng Huy Thịnh, Phạm Thành Hưng, Nguyễn Văn Thạc… Còn các “bóng hồng” thì dường như có gì đó còn hơi… khiêm tốn. Hình như có nhiều điều gì đó họ còn đằm lại, giữ lại cho mình, dù nhiều người cũng đã trở nên những nhà văn, nhà thơ, nhà báo nổi tiếng, có đóng góp cho nghề nghiệp.
2. Với tập sáng tác “Hoa hồng trong lửa”, bốn nữ tác giả có thể coi là đại diện cho giới mình, với ý nghĩa ở những sẻ chia đằm thắm, dịu hiền, khiêm nhường và tế nhị trong những trang văn đầy khói lửa chiến trường. Nhưng rộng hơn thế, cũng là đại diện cho cả nhiều trang nam nhi chung chí hướng khác nữa, ở lòng khát khao mong chờ và tin tưởng vào toàn thắng; ở tình yêu thương đồng bào thắm thiết trong bom đạn; tình thương mến, sẻ chia đồng đội qua những cơn vào sinh ra tử; và bao trùm là tình yêu đất đai, sông núi, suối rừng, đồng đất quê hương mãnh liệt và bền bỉ. Truyện ngắn “Người vùng sâu” của nhà văn Bùi Thị Chiến khắc họa tình quân dân, tình đồng chí, cả tình yêu thắm nở chung quanh hình ảnh người nữ du kích bé nhỏ mà kiên cường, nhuần nhị trong đời thường nhưng sắt đá và dũng mãnh trong chiến đấu. Cũng của nữ tác giả vào chiến trường khu 5 từ tháng 4/1971 này, truyện ngắn “Dừa không lá” gần như chỉ kể vòng quanh chuyện gia đình của người chiến sĩ tên Bình, sẵn sàng giấu vết thương ở bụng, nói dối là ở tay thôi để còn được… chiến đấu. Chuyện bố mẹ, cha con xoay quay vườn dừa được giữ như “bản mệnh” cuộc đời trong cơn bão táp càn quét của pháo giặc, làm bừng sáng lên tình đất, tình người và ý chí bất khuất của con người bất kể tháng năm dài bom đạn.

Cũng kể chuyện ta nhiều hơn chuyện địch, truyện ký “Chạm vào ký ức” của nhà văn Vũ Thị Hồng và ghi chép dài như một tập nhật ký chiến trường “Vịn vào thơ để sống” của nhà văn Trần Thị Thắng tái hiện thật sinh động, chân thực và giàu xúc cảm về những ngày tháng hoạt động, chiến đấu trong vòng tay đồng đội, đồng bào những vùng đất lửa. Nhân vật Thục trong truyện ký “Chạm vào ký ức” liên tiếp trải nghiệm sự khốc liệt, mất mát khi tháng ngày công tác của cô trên địa bàn tỉnh Bình Định (nay là Gia Lai) và một số địa phương miền trung lân cận, luôn cấp tập những trận đánh, những đợt càn quét, vây ráp của địch, những gương chiến đấu anh dũng và cũng đau xót chứng kiến rất nhiều sự hy sinh, tổn thất của đồng chí, đồng đội. Cô cũng vượt qua cả những chuyện hiểu lầm, những đâu đó nhỏ nhen, tị hiềm không đáng có giữa những người đồng chí, đồng đội cùng hoạt động văn nghệ kháng chiến. Với “Vịn vào thơ để sống”, ngay những tháng ngày ròng rã vượt Trường Sơn từ bắc vào nam đã là một trận đánh nhọc nhằn, nhiều khi tưởng kiệt sức, không thể chịu đựng nổi; cũng là trận đánh lớn, dai dẳng và cân não trong tâm tưởng, tình cảm khi quanh mình còn là rất nhiều mất mát, khổ cực, và cả thê lương. Đó là khi nối giữa những binh trạm là những liệt sĩ, thương binh, là hiểm nguy rình rập từ bom đạn và bệnh tật do thiên nhiên khắc nghiệt… Vượt qua hàng nghìn cây số đói khổ, đau ốm đến nguy kịch ấy, con người đã chiến thắng bằng nghị lực bản thân, bằng tình đồng chí, đồng đội nâng đỡ, săn sóc và bằng niềm tin được đến gần hơn với chiến thắng chung vĩ đại.
Và, cũng bằng sự trải lòng, gắn kết để thấm thía với những người những việc, những quê những đất quanh mình, đó chính là những bài thơ mộc mạc đầy chất sống, giàu tính kể chuyện của nhà thơ Hà Phương (Đỗ Thị Thanh) khi vào chiến trường, công tác trên địa bàn khu vực Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định. Mỗi bài thơ kể những ấn tượng sâu đậm trên đường hành quân về “Thiếu gạo, thiếu nước, thiếu cả ký ninh/Cứ mở mắt là… khóc nhớ nhà”, về rừng săng lẻ “Với thế dàn hàng thẳng trên triền đá/Săng lẻ không còn lẻ loi”, về chú bé Bình Long “Đòi ba cho lên rừng/Gia nhập quân giải phóng/Ba nói để tính toán/Chú vẫn cứ tót đi”…, rồi ước mơ cảnh cờ bay chiến thắng trong thành phố Sài Gòn, rồi niềm thương một miền đất “Mỹ Tho - cô gái đẹp” bị giày xéo nhưng kiên cường vượt lên…
3. Những câu chuyện của bốn “bông hồng trong lửa”, cũng giống như chính họ đã dấn thân và vượt qua, góp thêm cho bạn đọc hôm nay những cảm nhận về chiến tranh. Sự khốc liệt và những khổ đau, mất mát của nó ngoài các trận đánh, còn hiện diện ở nhiều không gian, vị trí, trạng thái, tình huống mà những người bước vào cuộc chiến phải đối mặt. Càng trân trọng những gì mà các nữ nhà văn đã suy tư, gìn giữ trong quãng thời gian quá nửa đời người từ thời chiến đến thời bình hiện tại. Cũng trân trọng biết bao những con người mà thanh xuân đồng nghĩa với chiến trường ở chung quanh họ, đã được kể chuyện, được nhắc tới trong những trang viết quyết liệt và thắm thiết tin yêu này.