Chẳng ai hiểu “cắt chìa tận gốc” là gì, nhưng nó vẫn ở đó suốt mấy chục năm. Dân quanh đó gọi ông là ông Hy “khóa”. Trẻ con chơi quanh cũng hay nài nỉ: “Ông Hy sửa khóa cặp cho con!”. Người lớn thì gửi chìa khóa nhà, cổng, xe máy, có người còn hỏi khá oái oăm: “Ổ khóa nhà em mất rồi, bác có nhớ kiểu chìa không?”.
Duy một điều, không ai biết lai lịch, gốc gác ông từ đâu. Có người khẳng định, thời trẻ, thấy ông ra ra vào vào những ngôi biệt thự, gắn lại những ổ khóa mang mật danh. Cũng có người thì thào: Ông được tín nhiệm vì có “giác quan thứ sáu”. Còn bây giờ, ông mưu sinh chật vật, không hiểu vì đâu. Ông Hy chưa bao giờ phủ nhận hay xác nhận. Có lần, ông nói vu vơ với người đàn ông trẻ vừa bị thôi việc, vợ bỏ, ngồi vơ vất trà đá một mình: “Có những ổ khóa sinh ra chẳng để giữ thứ gì, mà là kìm hãm cái bên trong”.
*
Ngày nọ, trời xam xám, người đàn bà mặc áo mưa mỏng tìm đến ông Hy. “Tôi cần chìa khóa nhà số 13/7 Mộc Lan. Giấy tờ đây”. Ông Hy khựng lại. Cái tên khỏa vòng sóng trí nhớ. Ông lụi cụi mở vali, lật lớp lụa mỏng dưới cùng, lấy bọc vải nhỏ đã sờn, từ đó rút ra chiếc chìa mầu đồng sậm, trên cán khắc thủ công dòng chữ lí nhí: “13/7-ML-1987”. Người đàn bà sững lại, mắt ánh lên, môi mấp máy không nên lời. “Gần bốn mươi năm trước, chị gái bà tới đây, yêu cầu làm một ổ khóa mới. Tôi đã làm thêm chìa, vì một... cảm giác…”. “Cảm giác?”, bà hỏi khẽ. “Có những cánh cửa đặc biệt, tôi sẽ mở cho ai đủ lòng thành”.
Chiều ấy, người ta thấy ông ngồi lặng tới tận xẩm tối, không nhận khách, không làm chìa. Trí nhớ già nua nhoi nhói. Câu chuyện thuở ấy dội về.
Hồi đó, người chị gọi ông đến nhà buổi sáng nắng gay gắt. Ông được yêu cầu làm ổ khóa mới. “Thật chắc chắn vào. Nó sẽ không trở lại đâu. Coi như tôi chấm dứt với nó”. Giọng người phụ nữ xinh đẹp trở nên sắc lạnh, gương mặt giấu sau mắt kính râm to bản. Đương nhiên, ông không hỏi lý do. Thợ khóa không nên can dự chuyện thiên hạ. Nhưng khi người chị quay lưng đi, ông cứ thấy bần thần. Có điều gì đó bất ổn. Như thể ổ khóa ấy sẽ khóa chặt một điều đáng nhẽ cần được mở, cần được giãi bày. Thợ khóa, xét cho cùng, là nghề của niềm tin. Người ta giao ổ khóa và ngôi nhà cho ông, đôi khi giao cả quá khứ, những uẩn khúc cuộc đời mà chẳng cần bản cam kết nào. Với người làm nghề lâu năm, quy tắc đạo đức cũng rõ ràng như từng đường cắt trên chìa: Không giữ phôi, không cắt thêm chìa, không tò mò, can dự…
Vậy mà… ông vẫn giữ lại một số khi cảm nhận có những câu chuyện chứa hiểu nhầm, có những vết thương không thể lành. Ông cũng tự biện hộ: “Chẳng làm gì có tội. Chỉ là để đó thôi”. Nhưng thẳm sâu trong lòng, ông biết, nếu nhà không đổi chủ, vẫn có người cần bước vào. Có thể để tha thứ. Có thể để hiểu ra. Trong những khoảnh khắc rất hiếm hoi, khi trực giác vượt lên lý trí, khi lòng người cựa quậy niềm xót xa sâu kín, thợ khóa đã dấn sang làm điều cấm kỵ.
“Ông biết không…” - giọng người đàn bà xa lạ run run - “ngày tôi rời khỏi căn nhà đó, tôi để lại bức thư cho chị ấy. Tôi giải thích tất cả. Rằng tôi không hề lấy tiền vàng, nhưng thư đó chưa từng đến tay chị”. Ông Hy khựng lại. “Bà chắc chứ?”. “Chắc! Vì khi vào nhà, tôi thấy nó. Lá thư vẫn nằm trong ngăn kéo bàn, chưa từng được mở”. Khoảng lặng nặng nề trùm xuống. Gió mang theo mùi ẩm ướt của cơn mưa đêm qua. Nước mắt lặng lẽ rơi. “Tôi giận chị ấy nhiều năm. Nhưng nhìn lại căn nhà cũ, mọi thứ vẫn y nguyên, còn có ảnh tôi chụp hồi tốt nghiệp đại học”. Ông Hy khẽ miết tay lên chén trà, thở dài “Có những cánh cửa, cả đời chẳng ai bước qua được”.
*
“Ngày đó…” - người đàn bà luống tuổi chậm rãi từng lời - “tôi thấy tiền vàng biến mất. Cũng là lúc mẹ tôi vừa qua đời, mà nó lại xin đi du học. Trong đầu tôi đinh ninh: Nó cầm tiền đi, không nói gì, như mọi thứ là của nó”. “Bà không hỏi?”, ông Hy căn vặn. “Không, tôi giận. Tôi cũng cho là mình nghĩ đúng” - bà thở dài - “Căn nhà, bao năm tôi vẫn giữ nguyên, không cho ai thuê. Tôi cũng không muốn sống ở đó”.
Người thợ khóa chăm chú lắng nghe, tay mân mê chiếc chìa mầu đồng sậm. Ông lục tìm vali, rút ra cuốn sổ da ngả mầu, gáy bong tróc. Sổ tay khách hàng của người thầy - ông Năm “bụi” - để lại trước khi qua đời. Lật giở, ông dừng lại ở mục đề ngày tháng: “KH: Duyên-13/7 Mộc Lan. Đánh thêm 1 chìa. Khách không biết”. Chữ viết tròn trịa, ngay ngắn, bên cạnh là dòng ghi chú bằng mực đỏ: “Giữ phôi theo chuẩn”. Khách ngẩng đầu, nhướng mày. Ông Hy nhẹ giọng: “Hồi ấy, thầy tôi là người trực tiếp làm chìa đầu tiên cho nhà bà. Bà nhớ không, khi bà mới dọn về đó…”. Khách lạ chậm rãi gật: “Tôi nhờ ông Năm “bụi”, ông ấy nói năng từ tốn, chắp tay cúi chào”. “Thầy tôi là người như thế…” - giọng ông chậm rãi, pha chút đắng nơi cuống họng - “ông còn hay dặn tôi, ngày đó lụi cụi mài chìa, rằng cầm chìa trong tay thật đấy, nhưng lòng đừng tơ hào thứ không thuộc về mình”. Ấm trà pha tạm ở nền công viên vương vất làn khói mỏng.
Ông Hy cũng nhớ hôm thấy thầy Năm “bụi” thẫn thờ, mắt hoe hoe, trong tay thư mời nhập học của thằng Bình - con trai thầy. Nó được suất học ở nước ngoài, cả họ mừng, tiếng là được lo hết nhưng liên hoan, quà cáp, những khoản phát sinh, dự phòng biết xoay đâu. Ông đinh ninh, Năm “bụi” chắc chắn không phải là thủ phạm, nhưng có thể đã đưa chìa cho người khác. Người đàn bà sững sờ: “Vậy là... ông ấy đánh chìa, giao cho kẻ gian, lấy tiền cho con đi nước ngoài?”. Ông Hy không dám đối diện ánh mắt ấy, giọng như có nước: “Có thể ông nghĩ: Chỉ một lần này thôi, con được đổi đời. Ông ấy tin rằng, mình đang hy sinh cái nhỏ cho cái lớn. Nhưng điều thầy Năm không lường được là có những cánh cửa một khi đã khóa lại bằng nỗi oan thì người trong nhà lại tuyệt giao, tuyệt tình…”.
*
Những năm tháng ấy, ông Hy mới gần hai mươi, ngồi xổm bên hòm đồ nghề gỉ sét, tay cầm phôi chìa chưa mài, vừa đánh giũa vừa nhìn sang thầy Năm “bụi” áo bạc mầu, chân xỏ dép cao su mòn gót. Ông Năm còng lưng khắc phục cái ổ khóa cũ cho bà cụ phố bên theo cách khoan thai mà nhẫn nại. Xong xuôi, ông không nhận tiền ngay, chỉ ôn tồn hỏi nhỏ: “Nhà đủ gạo ăn mấy hôm tới không cụ?”. Bà cụ lập cập lần ruột tượng mấy đồng lẻ, thợ khóa lắc đầu, đỡ cụ dậy. Đợi khách đi rồi, ông mới quay sang trò, ngồi bệt xuống hè, rút bao thuốc nhàu, châm một điếu, rồi trầm ngâm: “Này Hy… chìa khóa bé tí thế thôi mà giữ được những gia tài lớn”. Hy chần chừ giây lát, chợt hỏi: “Thế… có khi nào mình giữ lại phôi, phòng lúc khách quay lại mà mất chìa không thầy?”. Ông Năm không đáp vội, gẩy tàn thuốc xuống hè, nhìn ra dãy xà cừ đổ bóng dài trên mặt đường, đáp: “Muốn thành thợ khóa, đầu tiên phải học cách… không bao đồng, không dòm ngó. Người ta đưa cả gia tài cho mình là đưa niềm tin tưởng”. Hy gật, tay vẫn mân mê chiếc giũa. Ông Năm dụi tắt thuốc, nói tiếp, giọng chậm mà rõ ràng: “Cái nghề không sang giàu, Hy ạ, nhưng nuôi được mình tử tế. Có khi phải thắt lưng nhịn bữa, nhưng ta ngủ không chột dạ. Đấy mới xứng là thợ”.
Thầy Năm bụi dạy Hy cách cắt, cách giũa và cách rèn trực giác biết lúc nào nên dừng tay. Lời ông Năm ân cần mỗi khi tay vỗ nhẹ lên hòm khóa: “Thợ giỏi, không hẳn chỉ là mài khóa, mở khóa, đóng khóa tài tình. Mà phải biết cả… khóa nào không được mở”; “Cắt chìa để kiếm miếng cơm, dẫu vậy, có lúc phải dừng tay cũng là giữ lấy lương tri. Nghề này mà không có cái tâm, tinh thông hết nhẽ, rốt cuộc cũng chẳng giữ nổi mình”… Hy vẫn luôn cúi đầu lặng lẽ. Tiếng ve lẫn trong tiếng guốc ai ngang qua rồi lách cách xa dần.
*
Mái nhà ngói đỏ hun hơi nắng, sân gạch bốc khói, từng đợt lá sấu theo gió trút xuống, sắc vàng tươi ánh lên. Bên trong căn nhà 13/7 Mộc Lan, quạt trần quay rì rì. Trên ban thờ, hai cây nến nhỏ ứa ra sáp mềm. Hai người đàn bà luống tuổi ngồi đối diện, cách nhau mặt bàn gỗ lim vương bụi. Mãi rồi, người chị đứng dậy, đi vào buồng trong. Khi trở ra, tay bà cầm chiếc chìa khóa mầu đồng và cuốn sổ. Gió nóng lùa qua khung cửa, nâng khẽ tấm rèm xanh lơ. “Chị xin lỗi, rất xin lỗi em…”, giọng bà nghẹn ngào, tức tưởi. “Người ta nghĩ, vươn ra xứ người là thay đổi cả đời, nhưng chỉ một chiếc chìa khóa thôi cũng đủ khiến một mối thân tình đổ vỡ”. Hai người đàn bà nhìn quanh. Tủ, tràng kỷ gỗ lim. Ảnh tốt nghiệp của em gái đóng khung treo trên tường, mặt kính đã mờ.
Ông Hy chống xe đạp dựa vào bức tường tróc vữa. Ông bước vào, nói lời xin lỗi. Hai đôi mắt dịu đi. Người em vừa rót trà mời khách, vừa dịu dàng: “Thực ra, là bởi người nhà tôi đã không đủ can đảm để mở từ phía mình”. Ông đón chén trà bằng hai tay, khẽ cúi đầu, đôi mắt mờ đục ánh lên tâm trạng đan xen. “Chị giữ chiếc chìa này đi”, người em nói khẽ.
Dưới gốc khế sau nhà, vài quả chín rơi lộp bộp xuống mái bếp, vỡ ra mùi dịu ngọt. Đôi bồ câu sà xuống mái hiên rúc vào kẽ ngói, tự nhiên như thói quen suốt bao mùa mưa nắng. Chúng nghiêng đầu nhìn xuống căn nhà đã đóng cửa quá lâu. Lúc ra về, gió đưa theo cánh hoa khế tím nhạt bay lửng lơ rồi đậu xuống vai ông Hy. Chiếc xe đạp cọc cạch không theo hướng công viên mà mông lung giữa phố. Tiếng cửa gỗ căn nhà mang tên loài hoa ấy vẫn khẽ khàng, kẽo kẹt.