Tác phẩm văn học đề tài chiến tranh cách mạng được trình diễn trên sân khấu để tăng sức lan tỏa với công chúng.
Tác phẩm văn học đề tài chiến tranh cách mạng được trình diễn trên sân khấu để tăng sức lan tỏa với công chúng.

Văn học vẫn thiếu những “cú đột phá nội tâm”

Khép lại chuỗi hội thảo tại ba miền đất nước, vừa qua tại Hà Nội, chủ đề “Văn học Việt Nam sau năm 1975: Thành tựu, vấn đề và triển vọng” tiếp tục được bàn luận với khát vọng về những cuộc tự chuyển hóa bên trong người viết - cốt lõi cho sáng tạo đích thực.

Hãy khác để có cái mới bền vững!

Nửa thế kỷ với một hành trình phức hợp: Chiến tranh, khôi phục, bao cấp, đổi mới, hội nhập toàn cầu, văn học nước nhà đã tham gia vào việc kiến tạo đời sống tinh thần dân tộc. Bên cạnh nhiều thành tựu rõ rệt, còn những vấn đề đòi hỏi sự suy ngẫm nghiêm túc, có tính phản biện nhằm thúc đẩy văn học bước vào một tương lai phát triển mạnh mẽ và hội nhập.

Thị trường hóa văn học là xu hướng tất yếu mang đến nhiều cơ hội, nhưng ẩn chứa rủi ro khi làm phai mờ nhiệm vụ thẩm mỹ, nhân văn của văn chương. Vấn đề đã được nhiều tham luận nêu rõ: Bản sắc dân tộc và tính hiện đại của một số tác phẩm chưa nổi bật; chế độ đãi ngộ và chính sách hỗ trợ đối với người sáng tạo còn thiếu ổn định; quyền tác giả, cơ chế bảo vệ tác phẩm, cách thức tổ chức, chấm chọn các cuộc thi, vận động sáng tác… cần được chăm sóc nghiêm túc hơn. GS Phong Lê nhận định: Đời sống văn học sau 1990 chứng kiến nhiều cây bút mới, song một đội ngũ thật sự thống nhất về tầm nhìn nghệ thuật mà vẫn đa thanh dường như vẫn còn đang hình thành. Đời sống đang có nhu cầu rất cao về lực lượng trẻ - những cây bút ở tuổi đôi mươi - có nội lực, dám tìm tòi mà không cần chạy theo chiêu trò.

Những tiếng nói khác nhau, những góc nhìn đa dạng, tựu trung đều hướng đến câu hỏi căn cốt: Văn học Việt Nam đang đứng ở đâu và cần làm gì để bước tiếp? Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều, Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam chia sẻ: “Lực cản lớn nhất của văn học chính là bản thân người viết. Chúng ta cần vượt qua thách thức chính mình, dám đổi mới, dám bước ra khỏi vùng an toàn của thói quen và nỗi sợ”. Theo nhà thơ, nếu người viết chọn hướng an toàn, văn học sẽ tự khép mình giữa thế giới đang mở ra vô hạn. Văn học nước nhà đang có năng lượng sáng tạo mạnh mẽ, nhưng vẫn thiếu “những cú đột phá nội tâm”, thể hiện rõ ràng, can đảm bằng việc nhìn khác, nói khác, viết khác. Chính sự chuyển hóa ấy tạo ra cái mới bền vững.

122.jpg
Các đại biểu tham dự hội thảo tại Hà Nội.

Nhiều đầu việc trong hệ sinh thái văn học

Văn học hôm nay đang hòa vào kỷ nguyên số, toàn cầu hóa, khủng hoảng sinh thái, biến động xã hội… Nhiều tác giả đã xuất hiện, viết nhanh, viết nhiều, nhưng chưa đủ sâu để tạo nên đột phá. Vấn đề không ở tài năng mà có thể họ chưa trải qua một “cuộc chấn động tinh thần” đủ mạnh để “nứt vỏ”. Trước thực tế đó, hội thảo truyền đi tinh thần khích lệ, người viết cần đối thoại nhiều hơn với thời đại, nhưng trước hết là đối thoại với chính mình. Bởi nếu người viết không đặt ra câu hỏi về bản thân, thì văn học sẽ không bao giờ đặt ra câu hỏi cho con người.

Trong các chia sẻ, tham luận, nhiều văn nghệ sĩ và các nhà nghiên cứu lý luận phê bình còn nhắc tới “nỗi sợ” đang lặng lẽ bao trùm giới viết là trí tuệ nhân tạo (AI). Một số nhà văn quá AI, còn một số lại không sợ vì… không biết AI là gì. Trong bối cảnh xã hội không ngừng thay đổi, người viết cần biết để nhận thức, cảnh tỉnh và có ứng xử phù hợp. AI không còn là câu chuyện của tương lai xa mà đang hiện hữu trong từng tác phẩm, len lỏi vào từng thao tác biên tập. Sợ khi nghĩ rằng, công nghệ có thể thay thế hoàn toàn con người. Thờ ơ khi đinh ninh AI không có tâm hồn, trái tim…, cả hai thái cực đều có thể khiến người viết đánh mất khả năng chủ động với chính mình và trước thời đại. Bởi điều đáng sợ không phải AI biết quá nhiều mà là người viết đang biết quá ít.

Để tận dụng các điểm mạnh và khắc phục hạn chế, từ các tham luận, có thể gom lại những định hướng mang tính cụ thể lẫn chiến lược: Đầu tư vào đào tạo và bồi dưỡng chuyên sâu; tăng cường chính sách hỗ trợ và cơ chế đãi ngộ; nâng cao chất lượng xuất bản và truyền thông văn học; bảo tồn nguồn vốn văn hóa truyền thống đồng thời hội nhập có chọn lọc; thúc đẩy giải thưởng trong chuẩn mực nghệ thuật và đặc biệt là giữ mạch ký ức, thúc đẩy hòa hợp, hòa giải.

Một nền văn học vững mạnh, ngoài tài năng còn cần tới bản lĩnh để trung thực, tự vấn và dấn thân. Trách nhiệm của mỗi người cầm bút và cả hệ sinh thái văn học, từ nhà nước tới các tổ chức văn học, nhà xuất bản đến người viết, công chúng đều phải cùng nhau giữ gìn, phát triển “ngọn lửa bên trong” để văn học trở thành dòng chảy tinh thần xứng tầm với yêu cầu thời đại.

Sự phát triển của văn học đang đòi hỏi một cơ chế khuyến khích thử nghiệm tinh thần chứ không hẳn chỉ là hình thức. Cần thêm nhiều ấn phẩm, giải thưởng, diễn đàn tôn vinh “cái khác” và cần hơn bao giờ hết những người viết dám sống sâu, dám dấn thân sáng tạo với tất cả rủi ro của đời sống, tâm hồn mình.

Xem thêm