Khi bão Yagi quét qua miền bắc năm 2024, ít ai nghĩ đỉnh lũ mà nó gây ra sẽ có ngày bị vượt qua. Mức nước lũ năm ấy được đánh giá là “tần suất trăm năm mới xuất hiện một lần”. Thế nhưng, chỉ một năm sau, bão Bualoi rồi bão Matmo, dù không đổ bộ trực tiếp vào Việt Nam, đã khiến nhiều tuyến sông, nhiều đô thị ngập sâu với đỉnh lũ vượt mốc lịch sử Yagi tới hơn một mét. Nhiều cơn bão nối tiếp, nhiều đợt lũ lịch sử chỉ trong vòng 12 tháng, đã cho thấy một thực tế, thiên tai đang ngày càng cực đoan, vượt xa mọi mô hình dự báo, mọi khả năng chống chịu của hạ tầng hiện có.
Hệ thống phòng, chống thiên tai bộc lộ nhiều điểm yếu
Bão số 10 Bualoi đổ bộ Nghệ An, Hà Tĩnh cuối tháng 9 vừa qua, gây mưa lớn 300-500 mm ở miền trung, có nơi vượt 600 mm. Hậu quả: 67 người thiệt mạng và mất tích, thiệt hại kinh tế hơn 22.000 tỷ đồng. Chưa kịp khắc phục, bão số 11 Matmo đầu tháng 10, dù không đổ bộ trực tiếp nhưng hoàn lưu bão lại gây mưa xối xả ở miền bắc, khiến 18 người thiệt mạng, thiệt hại thêm gần 18.000 tỷ đồng. Tổng cộng, chỉ hai cơn bão đã cuốn trôi hơn 40.000 tỷ đồng.
Hai cơn bão vừa qua cũng đã để lại hơn 130 sự cố đê điều, 53 sự cố do bão số 10 và 84 sự cố do bão số 11. Hàng loạt con sông như sông Cầu, sông Thương, sông Cà Lồ, sông Bằng… vượt mức lũ lịch sử. Các đô thị như Hà Nội, Thái Nguyên, Vinh, Cao Bằng ngập sâu, nhiều nơi bị cô lập nhiều ngày. Tần suất và cường độ mưa lũ đã vượt quá khả năng thiết kế của hệ thống công trình phòng chống thiên tai, vốn được xây dựng theo các tiêu chuẩn của vài thập niên trước.
Theo ông Nguyễn Văn Hải, Trưởng phòng Ứng phó và khắc phục hậu quả thiên tai, Cục Quản lý Đê điều và Phòng chống thiên tai, Bộ Nông nghiệp và Môi trường, từ đầu năm đến nay, Việt Nam đã phải gánh chịu tới 20 loại hình thiên tai khác nhau, từ bão, áp thấp nhiệt đới đến mưa lớn, ngập lụt...
TS Đào Xuân Học, nguyên Thứ trưởng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, chỉ ra nguyên nhân sâu xa: “Quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa phát triển mạnh mẽ, trong khi công trình thủy lợi, đê điều nhiều nơi bị xuống cấp nghiêm trọng. Nhiều địa phương chú trọng phát triển đô thị, công nghiệp mà chưa quan tâm đúng mức đến hệ thống hạ tầng thủy lợi, vốn là xương sống bảo đảm an toàn cho phát triển”. Các khu đô thị mới trở thành “điểm nghẽn” tiêu thoát nước, dẫn tới ngập lụt nặng nề mỗi khi mưa lớn.
Ông Trần Quang Hoài, nguyên Tổng cục trưởng Phòng chống thiên tai, nhấn mạnh: “Ngay cả những quốc gia phát triển như Nhật Bản, với hệ thống phòng chống thiên tai hiện đại, cũng từng phải trả giá khi bão Hagibis năm 2019 phá vỡ hơn 100 điểm đê. Việt Nam càng phải nhận thức rằng, thiên tai hoàn toàn có thể vượt xa mọi tính toán”.
Không chỉ công trình, mà cách quản lý, vận hành hệ thống hạ tầng phòng, chống thiên tai cũng còn nhiều bất cập. Các công trình hồ chứa, hệ thống tiêu thoát nước đô thị, thậm chí quy hoạch dân cư đều chưa tính toán đến các kịch bản cực đoan mới. Khi biến đổi khí hậu làm mưa bão dày hơn, dữ dội hơn, những “chuẩn thiết kế” cũ trở nên lỗi thời và hậu quả là thiệt hại nối tiếp thiệt hại.
Phòng, chống thiên tai phải được lồng ghép trong mọi quy hoạch phát triển
Trong hầu hết các đạo luật hiện hành, từ Luật Quy hoạch, Luật Xây dựng, Luật Thủy lợi, Luật Phòng chống thiên tai đến Luật Đê điều đều có quy định yêu cầu xem xét yếu tố thiên tai, biến đổi khí hậu trong quy hoạch phát triển. Tuy nhiên, Thứ trưởng Nguyễn Hoàng Hiệp cho rằng, các quy định này còn chung chung, chưa rõ trách nhiệm cụ thể, chưa quy định chế tài xử lý khi vi phạm. “Nhiều quy hoạch đô thị vẫn thiếu sự phối hợp giữa các ngành. Có nơi khu mới lại ngập, khu cũ lại không, vì quy hoạch chưa đồng bộ, chưa xét đến yếu tố bất thường của thiên tai”.
Thực tế cho thấy, trong quá trình phát triển, chúng ta thường chạy theo mục tiêu tăng trưởng ngắn hạn, mà quên đi yếu tố an toàn dài hạn. Hàng trăm công trình vi phạm hành lang đê điều vẫn tồn tại “hiển hiện” vì lợi ích trước mắt. “Nếu không cá nhân hóa trách nhiệm, không quy định rõ ai chịu trách nhiệm khi để xảy ra hậu quả, thì mọi thứ sẽ mãi chung chung và đến khi thiên tai xảy ra, lại không biết lỗi thuộc về ai”, lãnh đạo Bộ Nông nghiệp và Môi trường nhấn mạnh.
Hiện, Chính phủ, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đang tập trung nguồn lực cho công tác tu bổ, nâng cấp đê điều và công trình phòng, chống thiên tai. Trong giai đoạn 2021-2025, cả nước triển khai bảy dự án độc lập và 37 dự án thành phần với tổng mức đầu tư hơn 6.680 tỷ đồng. Bộ cũng đang chuẩn bị dự án ADB 10 trị giá hơn 5.300 tỷ đồng, đồng thời xây dựng kế hoạch đầu tư trung hạn giai đoạn 2026-2030, dự kiến 18.000 tỷ đồng để nâng cấp hệ thống đê điều, phòng chống sạt lở bờ sông, bờ biển.
Tuy nhiên, đầu tư công trình mới chỉ là một phần của bài toán. “Bên cạnh cơ sở hạ tầng, phải đầu tư mạnh cho khoa học công nghệ và dự báo, vì thiên tai luôn diễn biến trên phạm vi rộng, không thể chỉ dựa vào phương châm “bốn tại chỗ’”, ông Trần Quang Hoài phân tích.
Thực tế, nhiều công trình hồ chứa, trạm điều tiết vẫn đang vận hành thủ công, thiếu hệ thống số hóa, dẫn đến chậm trễ khi ứng phó.
Ông Hà Ngọc Tuấn, Phó Tổng Giám đốc Công ty TNHH Kyuden Innovatech Việt Nam (Tập đoàn Điện lực Kyushu, Nhật Bản), nhận xét: “Chúng ta cần ứng dụng công nghệ tiên tiến để số hóa toàn bộ hệ thống điều hành hồ chứa, dự báo lượng mưa, lượng nước về hồ. Khi có công cụ điện toán, việc vận hành lũ sẽ chính xác và an toàn hơn rất nhiều”.
Đồng quan điểm, ông Hoàng Đức Cường, Phó Cục trưởng Khí tượng thủy văn, nhấn mạnh: “Nếu không chủ động dự báo, thiệt hại về tài sản và tính mạng sẽ rất lớn. Vì vậy, chúng tôi luôn bảo đảm hệ thống quan trắc hoạt động liên tục, thông tin được xử lý và cảnh báo kịp thời”.
Song song với đó, nâng cao nhận thức cộng đồng cũng là “tuyến phòng thủ mềm” quan trọng. Một xã hội có khả năng ứng phó tốt là xã hội trong đó mỗi người dân đều hiểu và chuẩn bị cho rủi ro thiên tai, từ việc bảo vệ tài sản cá nhân, tuân thủ cảnh báo đến tham gia vào các hoạt động phòng chống ở cơ sở.
Thiên tai không còn là “sự cố bất ngờ”, mà đã trở thành “rủi ro thường trực” trong mọi hoạt động phát triển. Khi mưa bão cực đoan ngày càng dày đặc, khi ngập lụt đô thị trở thành hình ảnh quen thuộc, thì việc lồng ghép yếu tố phòng, chống thiên tai vào quy hoạch phát triển không chỉ là khuyến nghị mà là mệnh lệnh của thực tiễn.
Một đô thị an toàn phải được thiết kế từ gốc với hạ tầng thoát nước, không gian trữ nước, hệ thống đê điều, công trình giao thông… phù hợp với các kịch bản cực đoan. Một khu công nghiệp bền vững phải tính đến rủi ro ngập lụt, sạt lở, phải có hệ thống cảnh báo sớm và kế hoạch khẩn cấp. Một dự án đầu tư chỉ thật sự “phát triển” khi nó không tạo thêm gánh nặng cho môi trường, không làm gia tăng nguy cơ thiên tai.
Như Thứ trưởng Nguyễn Hoàng Hiệp khẳng định: “Đầu tư cho phòng, chống thiên tai chính là đầu tư cho phát triển bền vững”. Mỗi con đê được gia cố, mỗi hồ chứa được số hóa, mỗi bản tin cảnh báo được phát sớm đều là một “lá chắn” bảo vệ cho sinh mạng và tài sản của hàng triệu người dân. Thiên tai sẽ không chờ đợi chúng ta hoàn thiện luật pháp hay quy hoạch. Vì vậy, chỉ khi mọi quyết sách đầu tư, mọi đồ án phát triển đều đặt “rủi ro thiên tai” vào trung tâm thì chúng ta mới có thể an toàn trong phát triển.
Theo Thứ trưởng Nông nghiệp và Môi trường Nguyễn Hoàng Hiệp, tư duy “phòng” thiên tai phải thay bằng tư duy “chủ động thích ứng”. Mọi quy hoạch phát triển, từ đô thị, công nghiệp, nông nghiệp đến giao thông, năng lượng, đều phải được thiết kế với “bộ lọc” rủi ro thiên tai. Một dự án được coi là “bền vững” không chỉ vì lợi nhuận hay quy mô, mà vì khả năng chống chịu của nó trước biến động khí hậu.