Việt Nam và Mỹ vừa công bố Tuyên bố chung về Hiệp định Thương mại đối ứng, nhân dịp Thủ tướng Phạm Minh Chính và Tổng thống Donald Trump tham dự Hội nghị Cấp cao ASEAN tại Kuala Lumpur (Malaysia).
Cơ hội phát triển bền vững
Hai bên thống nhất các nguyên tắc chủ chốt để mở rộng tiếp cận thị trường song phương. Việt Nam tăng ưu đãi cho hàng công nghiệp và nông sản Mỹ, trong khi Mỹ duy trì thuế đối ứng 20% với hàng Việt Nam và xem xét áp dụng thuế 0% cho một số sản phẩm. Hai nước cam kết giảm rào cản phi thuế quan, gồm công nhận tiêu chuẩn khí thải, thiết bị y tế Mỹ, đơn giản hóa thủ tục dược phẩm và nông sản, đồng thời thực thi đầy đủ quyền sở hữu trí tuệ. Việt Nam sẽ triển khai cơ chế giám sát và công nhận chứng nhận nông sản Mỹ để thuận lợi hóa thương mại. Trong vài tuần tới, hai bên sẽ hoàn tất các nội dung kỹ thuật và thủ tục để Hiệp định chính thức có hiệu lực.
Theo PGS, TS Nguyễn Thường Lạng, giảng viên cao cấp Viện Thương mại và Kinh tế quốc tế, Đại học Kinh tế quốc dân, thỏa thuận thương mại giữa Việt Nam và Mỹ là một bước tiến quan trọng, mở ra cơ hội phát triển bền vững cho quan hệ song phương, không chỉ giúp hai bên đi sâu vào hợp tác thực chất mà còn ngăn ngừa các xung đột thương mại kéo dài, tạo nền tảng pháp lý vững chắc để giao thương ổn định.
Vị chuyên gia cho biết, kể từ khi Hiệp định Thương mại song phương Việt Nam - Mỹ năm 2001 có hiệu lực, xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ tăng mạnh, từ gần như con số 0 lên 136 tỷ USD hiện nay. Thỏa thuận mới sẽ tiếp tục nâng cao tốc độ xuất khẩu, duy trì niềm tin của nhà đầu tư, hạn chế gián đoạn trong chuỗi cung ứng, đồng thời tạo điều kiện để doanh nghiệp Việt Nam ký hợp đồng dài hạn và xây dựng chuỗi cung ứng tin cậy.
Bên cạnh đó, thỏa thuận khuyến khích Việt Nam phát triển tư duy làm ăn lâu dài, tính đến lợi ích của cả hai bên, không chỉ tập trung xuất khẩu mà còn bảo đảm sự cân bằng trong quan hệ kinh tế. Đồng thời, đây là cơ hội để Việt Nam đa dạng hóa thị trường, giảm phụ thuộc vào một thị trường đơn lẻ, phù hợp với chiến lược quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với nhiều quốc gia.
Đáng lưu ý, thỏa thuận cũng giúp hạn chế các rủi ro liên quan đến kiện chống bán phá giá, thặng dư thương mại quá mức hay các rào cản phi thuế quan, tạo ra hành lang pháp lý ổn định và nâng cao tính tin cậy của doanh nghiệp trong nước và đầu tư nước ngoài.

Cơ hội có chọn lọc
Còn theo TS Nguyễn Quốc Việt, chuyên gia chính sách công, Trường đại học Kinh tế (Đại học Quốc gia Hà Nội), việc công khai rõ ràng mức thuế đối ứng 20% giúp doanh nghiệp Việt Nam không còn chờ đợi khả năng giảm thuế, mà chủ động hơn trong hoạch định chiến lược xuất khẩu. Từ đây, các doanh nghiệp xuất khẩu có thể tập trung vào nâng cao chất lượng, gia tăng giá trị nội địa, thay vì trông chờ vào ưu đãi thuế quan.
Trong nhóm hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam, nông sản và thủy, hải sản nhiều khả năng sẽ là lĩnh vực được xem xét ưu tiên đầu tiên để hưởng ưu đãi trong khuôn khổ “đối tác tương đồng”. Bởi đây là các ngành mà Mỹ lâu nay thúc đẩy mở cửa thị trường tại khu vực châu Á, trong đó có Việt Nam. Trong khi đó, “đất nước hình chữ S” cam kết giảm thuế nhập khẩu và mở rộng thị trường cho hàng nông sản Mỹ. Nhóm hàng này có xuất xứ rõ ràng, khả năng truy xuất minh bạch và mức độ tự chủ nguyên liệu cao, nên có điều kiện thuận lợi để được xem xét áp thuế suất 0%.
Một lĩnh vực chiến lược khác được kỳ vọng hưởng lợi là công nghệ cao, đặc biệt trong ngành công nghiệp bán dẫn và các dịch vụ công nghệ thông tin, trí tuệ nhân tạo (AI), dữ liệu lớn (Big Data). Việt Nam đang thể hiện thiện chí mở cửa và hợp tác sâu với các doanh nghiệp công nghệ hàng đầu của Mỹ, không chỉ trong đầu tư mà cả chuyển giao công nghệ và đào tạo nhân lực chất lượng cao.
Từ góc nhìn của doanh nghiệp, bà Đỗ Thị Thúy Hương, Ủy viên Ban Chấp hành Hiệp hội Doanh nghiệp Điện tử Việt Nam cho biết hiện, Mỹ chưa công bố chính thức danh sách các sản phẩm được áp dụng thuế suất 0%. Tuy nhiên, dựa trên Tuyên bố chung và các lợi ích chiến lược song phương, đại diện Hiệp hội nhận định một số nhóm hàng có khả năng được ưu tiên.
Nhóm sản phẩm tiềm năng bao gồm các mặt hàng liên quan đến an ninh chiến lược và chuỗi cung ứng quan trọng, như linh kiện bán dẫn, thiết bị viễn thông và khoáng sản chủ chốt - những lĩnh vực Mỹ đang ưu tiên để bảo đảm an ninh chuỗi cung ứng. Đồng thời, các sản phẩm gia công cho tập đoàn công nghệ lớn như Apple hay Samsung, có nhà máy hoặc chuỗi sản xuất tại Việt Nam, cũng được dự báo nằm trong danh mục 0%.
Ngoài ra, các thiết bị điện tử tiêu dùng lắp ráp hoàn chỉnh, có tỷ lệ nội địa hóa cao và giá trị gia tăng lớn, có thể nhận ưu đãi ở mức trung bình nếu đáp ứng tiêu chuẩn lao động và cạnh tranh lành mạnh. Một số mặt hàng khác mang lợi ích kinh tế - chính trị cho Mỹ, thí dụ những sản phẩm được các doanh nghiệp Mỹ mua nhiều hoặc nằm trong chuỗi cung ứng quan trọng, cũng có thể được xem xét, mặc dù phụ thuộc lớn vào chính sách đối ngoại và nội bộ của Mỹ. Ngược lại, những linh kiện có chuỗi cung ứng phức tạp, tỷ lệ nội địa hóa thấp hoặc dễ thay thế sẽ khó có cơ hội hưởng ưu đãi.
TS Nguyễn Sơn, giảng viên ngành Quản lý chuỗi cung ứng và logistics, Đại học RMIT Việt Nam: “Doanh nghiệp nên tập trung vào hệ thống chứng nhận xuất xứ, chuẩn bị chứng từ đầy đủ, định vị thị trường kép tại EU, Nhật Bản và Mỹ, đồng thời nâng cao các tiêu chuẩn chất lượng và bền vững. Đây là cách tốt nhất để tận dụng ích từ thỏa thuận, giảm rủi ro pháp lý và gia tăng sức cạnh tranh trên thị trường toàn cầu”.
Khắc phục rào cản kỹ thuật
Bên cạnh những cơ hội, TS Nguyễn Sơn, giảng viên ngành Quản lý chuỗi cung ứng và logistics, Đại học RMIT Việt Nam cho rằng, việc thực thi thỏa thuận thương mại Việt Nam - Mỹ vẫn đối mặt nhiều thách thức. Trước hết, các rào cản kỹ thuật và phi thuế quan là cấp bách, khi Việt Nam cần hài hòa các tiêu chuẩn của Mỹ và tuân thủ đầy đủ các nghĩa vụ về sở hữu trí tuệ. Điều này đòi hỏi nâng cao năng lực thể chế, xây dựng hạ tầng tuân thủ và hoàn thiện hệ thống quản lý chất lượng, vốn vẫn đang trong quá trình phát triển.
Nguy cơ phòng vệ thương mại cũng là thách thức lớn khi Mỹ có thể triển khai các cuộc điều tra chống bán phá giá, áp dụng thuế đối kháng và các biện pháp tự vệ, khiến mức thuế 20% không bảo đảm mọi sản phẩm xuất khẩu đều tránh được các cuộc điều tra bổ sung theo Mục 301 hoặc các quy định tự vệ khác. Thêm vào đó, việc xác định sản phẩm thật sự sản xuất tại Việt Nam hay hàng hóa trung chuyển còn chưa rõ ràng, dễ phát sinh tranh chấp.
Để vượt qua những thách thức này, TS Nguyễn Sơn đề xuất các cơ quan chức năng tăng cường năng lực kỹ thuật và hạ tầng chứng nhận, đồng thời hướng dẫn doanh nghiệp tuân thủ tiêu chuẩn quốc tế. Việc đàm phán các thỏa thuận công nhận lẫn nhau (MRA) với các thị trường trọng điểm giúp giảm trùng lặp chứng nhận, trong khi quan hệ đối tác giữa cơ quan nhà nước và doanh nghiệp tạo điều kiện chia sẻ kinh nghiệm, hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Đa dạng hóa thị trường xuất khẩu cũng được đánh giá là cần thiết. Việt Nam nên mở rộng sang các nước ASEAN+3, BRICS, châu Phi và Mỹ latin, ưu tiên những thị trường mà sản phẩm có thể cạnh tranh dựa trên giá trị gia tăng, thay vì chỉ dựa vào chi phí. Song song với đó, phát triển lực lượng lao động theo xu hướng Công nghiệp 5.0 là then chốt. Đào tạo về tự động hóa, phân tích dữ liệu, kỹ thuật cao và công nghệ năng lượng mới giúp người lao động tham gia vào các dây chuyền sản xuất giá trị cao hơn, nâng cao năng lực cạnh tranh bền vững và đáp ứng yêu cầu thị trường cao cấp.