Việc sáp nhập đại học không chỉ về mặt tổ chức, mà sâu xa hơn, là cuộc cải tổ toàn diện về tư duy quản trị và sứ mệnh đào tạo. Ảnh: ANH QUÂN
Việc sáp nhập đại học không chỉ về mặt tổ chức, mà sâu xa hơn, là cuộc cải tổ toàn diện về tư duy quản trị và sứ mệnh đào tạo. Ảnh: ANH QUÂN

Sắp xếp để nâng tầm giáo dục

Thực hiện Nghị quyết 71 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo, Bộ trưởng Giáo dục và Đào tạo (GD&ĐT) Nguyễn Kim Sơn khẳng định: “Những trường manh mún, trường nhỏ, khó tuyển sinh, không bảo đảm chất lượng, kể cả khối công lập và tư thục sẽ là đối tượng đầu tiên rà soát, sắp xếp”.

Tinh thần sắp xếp là để các cơ sở giáo dục mạnh lên, đầu tư có trọng tâm, trọng điểm và hiệu quả hơn.

Mạng lưới trường học “đông mà yếu”

Theo thống kê của Bộ GD&ĐT, cả nước hiện có 244 cơ sở giáo dục đại học, trong đó 172 trường công lập. Sau khi các bộ, ngành và địa phương thực hiện sáp nhập, hợp nhất, nhiều trường đại học công lập cũng thay đổi cơ quan chủ quản.

Theo Quyết định số 1723/QĐ-TTg ngày 12/8/2025 của Thủ tướng Chính phủ, Bộ GD&ĐT hiện quản lý 40 cơ sở giáo dục đại học, gồm hai đại học quốc gia và ba đại học vùng. Các trường còn lại trực thuộc các bộ, ngành hoặc UBND tỉnh, thành phố. Một số bộ có số lượng trường đại học lớn (9 - 10 trường) là Bộ Y tế, Bộ Công thương, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch. Trong khi đó, TP Hồ Chí Minh là địa phương có nhiều trường đại học trực thuộc UBND cấp tỉnh nhất với ba trường: đại học Sài Gòn, đại học Thủ Dầu Một và đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch.

Tuy số lượng cơ sở đào tạo khá lớn, song nhiều chuyên gia cho rằng, mạng lưới này thiếu tính liên kết và quy hoạch tổng thể, dẫn đến tình trạng “đông mà yếu”. Các trường địa phương, phần lớn trực thuộc UBND tỉnh, thường có quy mô nhỏ, nhiệm vụ chủ yếu là đào tạo nhân lực phục vụ tại chỗ. Khi cơ cấu kinh tế địa phương thay đổi, nhu cầu nhân lực mới không còn trùng với thế mạnh sư phạm truyền thống, các trường này chậm thích ứng, không kịp mở ngành mới hoặc nâng cấp đội ngũ giảng viên đạt chuẩn.

Đầu năm 2025, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 452/QĐ-TTg phê duyệt “Quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục đại học và sư phạm thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050”. Báo cáo của Bộ GD&ĐT khi xây dựng đề án này cho thấy, có 26 cơ sở giáo dục đại học thuộc địa phương nhiều năm không có cải thiện đáng kể về quy mô đào tạo, tuyển sinh khó khăn, hoạt động kém hiệu quả.

Nhìn tổng thể, các cơ sở giáo dục đại học Việt Nam được phân bố trên khắp các vùng miền, song có sự chênh lệch rõ rệt về mật độ và quy mô. Các trường tập trung chủ yếu tại các vùng kinh tế phát triển, đặc biệt là Đồng bằng sông Hồng chiếm hơn 44% tổng số trường đại học cả nước, tiếp đến là vùng Đông Nam Bộ với 18,4%. Ngược lại, vùng Tây Nguyên có tỷ lệ thấp nhất, chỉ khoảng 1,6%.

Xu thế tất yếu

Theo các chuyên gia giáo dục, tái cấu trúc hệ thống đại học công lập là xu thế tất yếu trong bối cảnh hiện nay. TS Lê Đông Phương, nguyên Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Giáo dục Đại học (Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam) nhận định, sắp xếp, tái cấu trúc hệ thống giáo dục đại học không chỉ là việc sáp nhập về mặt tổ chức mà sâu xa hơn, là cuộc cải tổ toàn diện về tư duy quản trị và sứ mệnh đào tạo.

Dưới góc độ quản trị, đây vừa là cách các cấp quản lý nhìn nhận sự thay đổi cấu trúc hệ thống, vừa là quá trình các trường sắp xếp lại đội ngũ cán bộ, giảng viên trong khuôn khổ những đơn vị mới hình thành sau hợp nhất. Quan trọng hơn, đó là sự điều chỉnh tư duy về quản lý và vận hành, hướng tới mô hình tinh gọn, thích ứng linh hoạt với biến động của xã hội - điều vốn không dễ dàng khi phải vượt qua nếp cũ và thói quen lâu năm.

Theo TS Phương, để tái cấu trúc trở thành bước chuyển mang tính chiến lược của giáo dục đại học Việt Nam, cần có lộ trình tổng thể, tầm nhìn dài hạn và các bước triển khai cụ thể. Quá trình này đòi hỏi nghiên cứu kỹ lịch sử phát triển của hệ thống, tham khảo kinh nghiệm quốc tế và chọn lọc cách làm phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Mọi hoạt động cần được tiến hành trên tinh thần hợp tác, tránh áp đặt duy ý chí. Công tác truyền thông chính sách cũng phải được triển khai sớm để tạo sự đồng thuận trong xã hội.

Tái cấu trúc không nên dừng ở việc sáp nhập hay hợp nhất, mà cần tiến xa hơn - hình thành các hệ thống đại học (university system) gồm những trường có cùng định hướng và năng lực, đặt tại nhiều địa bàn khác nhau. Cách làm này giúp tạo mặt bằng chung về chất lượng đào tạo nhưng vẫn giữ bản sắc riêng của từng đơn vị.

Sau tái cấu trúc, các cơ sở cần được hỗ trợ về năng lực quản trị, học thuật, tài chính, cũng như có chính sách khuyến khích nghiên cứu khoa học cơ bản và hỗ trợ người học. Chỉ khi đó, chủ trương tái cấu trúc mới thật sự trở thành động lực đổi mới mô hình quản trị và nâng cao chất lượng đào tạo, nghiên cứu trong giáo dục đại học Việt Nam.

TS Hoàng Ngọc Vinh, nguyên Vụ trưởng Giáo dục Chuyên nghiệp (Bộ GD&ĐT) cũng cho rằng, tái cấu trúc hệ thống giáo dục đại học hiện nay không còn là lựa chọn mà là yêu cầu bắt buộc. Mạng lưới cơ sở đào tạo đang phân mảnh, phân bố thiếu hợp lý: Có nơi tập trung dày đặc, nơi lại gần như “trắng” đại học. Theo ông Vinh, chủ trương tái cấu trúc cần giải quyết ba điểm nghẽn lớn: Khắc phục lãng phí nguồn lực; phân bổ lại ngành nghề và quy mô đào tạo hợp lý đồng thời nâng cao chất lượng đồng bộ để đạt mục tiêu của Nghị quyết 71-NQ/T.Ư về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo. “Nếu coi tái cấu trúc chỉ là biện pháp tình thế, vài năm nữa chúng ta sẽ lại phải làm lại. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, tái cấu trúc chỉ thành công khi gắn với tầm nhìn dài hạn và đầu tư chiến lược”, nguyên Vụ trưởng Giáo dục Chuyên nghiệp nhấn mạnh.

Nhiều chuyên gia giáo dục khác cũng đề xuất các giải pháp trọng tâm trong quá trình sắp xếp lại hệ thống đại học. Trước hết, cần sáp nhập, hợp nhất hoặc chuyển đổi mô hình đối với những trường hoạt động kém hiệu quả. Các cơ sở có quy mô nhỏ, tuyển sinh thấp trong nhiều năm hoặc không còn phù hợp với nhu cầu nhân lực địa phương nên được xem xét sáp nhập vào đại học vùng hoặc các trường khác. Cùng với đó, hệ thống giáo dục đại học cần được phân tầng rõ ràng và định hướng phát triển cụ thể. Mỗi nhóm trường - từ đại học nghiên cứu, đại học ứng dụng đến cơ sở đào tạo nghề chất lượng cao cần có mục tiêu, nhiệm vụ và tiêu chí đánh giá riêng.

“Một yêu cầu quan trọng khác là tăng cường quyền tự chủ đi đôi với trách nhiệm giải trình. Các trường phải được trao quyền tự chủ thực chất trong quản lý tài chính, nhân sự, học thuật đồng thời minh bạch trong hoạt động và chịu trách nhiệm rõ ràng về kết quả đào tạo, nghiên cứu khoa học cũng như sử dụng ngân sách công”, một chuyên gia giáo dục đại học nêu quan điểm.

Ông Lê Tấn Dũng, Thứ trưởng GD&ĐT cho hay, chủ trương sắp xếp, sáp nhập, giải thể cơ sở giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp đã được Bộ Chính trị khẳng định rõ tại Nghị quyết số 71-NQ/T.Ư ngày 22/8/2025 về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo. Đây là quan điểm, chủ trương lớn của Đảng phải thực hiện nghiêm túc, khẩn trương, triển khai khoa học, bài bản, quyết liệt nhưng cũng thận trọng do việc sắp xếp tác động đến tâm tư, tình cảm rất nhiều.

Bộ GD&ĐT nhận thức rõ trách nhiệm trong vấn đề này, song theo ông Dũng, việc này không phải một mình bộ tự làm mà cần có sự chung tay phối hợp, đồng thuận của bộ, ngành, trung ương và địa phương, đặc biệt là các cơ sở giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp trong cả nước. Hiện nay, theo phân công, bộ đang được giao xây dựng đề án sắp xếp lại cơ sở giáo dục - đào tạo, giáo dục nghề nghiệp và đề án chuyển một số cơ sở giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp về địa phương. Sắp tới, bộ sẽ trình cấp có thẩm quyền để quyết định và thực hiện ngay năm 2026.

Để giải quyết bài toán đào tạo gắn với thực hành, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn xã hội và thị trường lao động, ông Dũng cho biết, bộ cũng xác định vấn đề này trong đề án sắp tới và thực hiện trên cơ sở quan điểm nghị quyết của Bộ Chính trị, nghị quyết Quốc hội và nghị quyết Chính phủ, căn cứ vào chiến lược phát triển giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp. Đồng thời các căn cứ mạng lưới cơ sở giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt; mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, các vùng kinh tế, quốc phòng - an ninh…, để đặt vấn đề đào tạo gắn với mục tiêu, đào tạo sao cho có việc làm, gắn với thị trường.

Từ kinh nghiệm quốc tế và điều kiện thực tiễn, ông Dũng cho hay, đề án xác định rõ sứ mệnh các cơ sở này với các nguyên tắc, tiêu chí cụ thể, rõ ràng, để làm sao triển khai bảo đảm công khai, minh bạch, tránh tình trạng xin cho, tranh thủ, chạy chọt và tiêu cực. Theo đó, hiện nay đề án đang xây dựng, sắp tới xin ý kiến các bộ, ngành, địa phương, chuyên gia và đặc biệt là các cơ sở giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp để tạo đồng thuận cao.

Xem thêm