Hội thảo góp ý hoàn thiện dự thảo Luật AI. Ảnh: VĂN BAN
Hội thảo góp ý hoàn thiện dự thảo Luật AI. Ảnh: VĂN BAN

Cân bằng trong xây dựng Luật Trí tuệ nhân tạo

Tại Kỳ họp thứ 10, Quốc hội Khóa XV khai mạc hôm nay (20/10), Quốc hội sẽ xem xét, thông qua dự án Luật Trí tuệ nhân tạo (AI). Theo nhiều ý kiến chuyên gia, điều quan trọng đối với dự án luật này là xác định được điểm cân bằng phù hợp giữa quản lý nhà nước đối với AI và thúc đẩy sự phát triển công nghệ đổi mới.

Cân bằng giữa quản lý và thúc đẩy sự phát triển AI

Trong những năm trở lại đây, AI đã có những bước phát triển mạnh mẽ, tác động sâu sắc đến mọi lĩnh vực của đời sống, từ sản xuất, kinh doanh, giáo dục, y tế, giao thông, đến quốc phòng và an ninh. Với số đông người dân, khái niệm AI trở nên gần gũi hơn từ khi ChatGPT - một sản phẩm AI tạo sinh - ra mắt vào cuối tháng 11/2024.

Tại Việt Nam, AI được xác định là một trong những công nghệ ưu tiên quốc gia, đóng vai trò then chốt trong chuyển đổi số, phát triển kinh tế tri thức và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Tuy nhiên, sự phát triển nhanh của lĩnh vực này cũng đặt ra nhiều thách thức, đòi hỏi phải có hành lang pháp lý phù hợp.

Phát biểu ý kiến tại các Hội thảo góp ý hoàn thiện dự thảo luật do Thường trực Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội (KHCN&MT), phối hợp Bộ Khoa học và Công nghệ và một số đơn vị tổ chức trong tuần qua, Phó Chủ nhiệm Ủy ban KHCN&MT Trần Văn Khải chỉ rõ, điều quan trọng đối với dự án Luật Trí tuệ nhân tạo là xác định được quan điểm chính sách, xác định được điểm cân bằng phù hợp giữa quản lý và thúc đẩy sự phát triển AI. Đáp ứng yêu cầu đó, những nội dung quản lý, những điều cấm phải thật sự tường minh.

Thời gian qua, nhiều nước trên thế giới đã chủ động, tích cực trong việc xây dựng, hoàn thiện hành lang pháp lý cho lĩnh vực AI. Trong đó, Đạo luật về AI của Liên minh châu Âu (EU) là đạo luật toàn diện đầu tiên trên thế giới về lĩnh vực này. Áp dụng mô hình quản trị dựa trên rủi ro, luật của EU tập trung quy định các hành vi bị cấm; hệ thống AI có rủi ro cao; nghĩa vụ minh bạch đối với nhà cung cấp và người triển khai các hệ thống AI; cơ chế quản trị AI; cơ chế thực thi, chế tài…

Trong khi đó, tại Nhật Bản, luật về AI của nước này hướng mạnh vào mục tiêu thúc đẩy nghiên cứu, phát triển và ứng dụng các công nghệ liên quan AI. Tương tự, Luật Cơ bản về phát triển AI và xây dựng nền tảng niềm tin của Hàn Quốc tập trung quy định về chính sách thúc đẩy phát triển AI; đạo đức và độ tin cậy AI… Ngoài ra, nhiều nước khác đang khẩn trương xây dựng, hoàn thiện thể chế quản lý đặc thù cho lĩnh vực AI.

Cho rằng, Việt Nam không nên đi theo mô hình “luật cứng” như EU mà nên học hỏi mô hình của Nhật Bản, chuyên gia công nghệ Nguyễn Tử Quảng kiến nghị, Luật Trí tuệ nhân tạo của Việt Nam nên được xây dựng như một đạo luật khung, tập trung thúc đẩy sự phát triển của AI với các hướng dẫn tự nguyện; còn việc xử phạt sẽ áp dụng theo các luật hiện hành thay vì tăng thêm các chế tài mới trong lĩnh vực này.

Tạo hành lang pháp lý phù hợp

Còn luật sư Nguyễn Tuấn Linh, Công ty Luật quốc tế BMVN khuyến nghị, dự thảo luật nên được xây dựng nhằm thúc đẩy quản trị linh hoạt với mục tiêu tập trung vào các hệ thống AI có rủi ro cao, những danh mục rủi ro nên được cập nhật thường xuyên để phản ánh tiến bộ công nghệ. Việc đánh giá rủi ro cần dựa trên tiêu chí rõ ràng, khách quan và phù hợp tiêu chuẩn quốc tế. “Việc đưa ra các định nghĩa quá rộng, quá nặng nề liên quan phân loại rủi ro có thể vô tình cản trở sự phát triển của các công nghệ AI lành tính, hoàn toàn không có khả năng gây hại trên thực tế”, luật sư nhận định.

Từ góc nhìn doanh nghiệp, Phó Tổng Thư ký kiêm Trưởng Ban Pháp chế Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), ông Đậu Anh Tuấn cho rằng, việc luật đề xuất trách nhiệm pháp lý khách quan với hệ thống rủi ro cao là phù hợp. Song, cần giới hạn trách nhiệm và tiêu chí phân bổ rủi ro một cách hợp lý và có thể thực thi.

Theo một số ước tính, quy mô nền kinh tế AI của Việt Nam dự kiến đạt 120-130 tỷ USD vào năm 2040. Tốc độ tăng trưởng này sẽ xuất phát từ tăng trưởng doanh thu tiêu dùng (45 - 55 tỷ USD) và tăng trưởng lợi nhuận nhờ nâng cao năng suất (60 - 75 tỷ USD). Vì vậy, việc tạo hành lang pháp lý phù hợp để khai thác hiệu quả nguồn lực AI có thể giúp Việt Nam đạt được mục tiêu trở thành quốc gia phát triển có thu nhập cao vào năm 2045.

Tiến sĩ Nguyễn Bích Thảo, Trường đại học Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội kiến nghị tham khảo chính sách ứng phó thay đổi do AI mang lại tương tự luật khung về AI của Hàn Quốc. Theo đó, Nhà nước tiến hành đánh giá tác động toàn diện và có chính sách ứng phó với những thay đổi trong mọi lĩnh vực do AI mang lại, đồng thời giúp mọi công dân có thể thích ứng ổn định với sự thay đổi.

Xem thêm