Bác sĩ nữ chuyên khoa đặc thù

Bác sĩ nữ chuyên khoa đặc thù

Khoa Tâm thần A6, Bệnh viện Quân y 103 (Học viện Quân y) có ba bác sĩ nữ, hai điều dưỡng nữ trên tổng số 30 nhân viên y tế. Do đó, nam giới cố gắng một thì nữ giới phải gấp hai-ba lần.

Công việc vất vả nhưng khi thấy bệnh nhân khỏi bệnh, trở về với gia đình và xã hội thì niềm hạnh phúc lại được nhân lên gấp bội đối với mỗi y, bác sĩ.

“Quyền lực mềm”

8 giờ sáng hằng ngày là thời gian bắt đầu đi buồng bệnh của Thiếu tá, bác sĩ Phạm Thị Thu. Dừng chân tại giường của một nữ bệnh nhân. Bác sĩ Thu giọng nhẹ nhàng: “Tại sao em lại bỏ thuốc như vậy?”.

Bệnh nhân đáp: “Không thích uống nữa!”.

Bác sĩ ân cần khuyên răn: “Em không thể bỏ thuốc như vậy được. Nếu uống thuốc khiến em khó chịu như thế nào thì em bảo bác sĩ để điều chỉnh nhé. Em cứ bỏ thuốc vậy, bệnh sẽ tái phát nhiều lần và mỗi lần như thế sẽ làm cho tế bào não của em bị ảnh hưởng, não bị teo dần, bệnh ngày càng nặng. Em phải uống thuốc đều để sau khi ra viện, em có thể quay trở lại công việc, kiếm tiền nuôi con và mẹ nữa”.

Lúc này bệnh nhân chỉ gật đầu nói “vâng”.

Đây là đoạn hội thoại ngắn giữa Thiếu tá, bác sĩ Phạm Thị Thu và bệnh nhân Đ.T.T.H. (Quảng Trị). Mẹ bệnh nhân H chia sẻ: “Đây là lần thứ hai con tôi điều trị tại khoa. Cũng đi khám, điều trị nhiều nơi nhưng khi đến đây, bệnh con tôi tiến triển nhanh nhất. Cháu bị tâm thần phân liệt, hoang tưởng. Khi sinh con thứ hai, H. bảo tôi trong đầu xuất hiện toàn tiếng nói chuyện và cứ ngồi cười một mình, không làm được việc gì. Nghe mọi người mách bảo, tôi đưa cháu từ Quảng Trị ra đây chữa trị. Được các bác sĩ, điều dưỡng tận tâm chăm sóc, điều trị mới gần một tháng, con tôi đã khỏe lên nhiều”.

H là một trong 94 bệnh nhân đang điều trị tại Khoa A6. Việc điều trị, chăm sóc người bệnh bình thường đã vất vả, đối với những bệnh nhân tâm thần còn vất vả gấp bội phần. Có lẽ cũng vì thế mà không nhiều y, bác sĩ nữ lựa chọn chuyên khoa này.

BS CKI Phạm Thị Thu chia sẻ, chị đến với chuyên ngành này như là một cơ duyên, giống như thể nghề đã chọn người. Sau khi tốt nghiệp đại học và học nội trú, năm 2017, bác sĩ Phạm Thị Thu chính thức làm việc tại Khoa A6 Bệnh viện Quân y 103 (Học viện Quân y). Những ngày đầu làm việc tại Khoa A6, bác sĩ Phạm Thị Thu không tránh khỏi sợ hãi khi gặp các bệnh nhân ở đây. Qua nhiều năm làm việc, cô gái với dáng người nhỏ nhắn đã tự kiếm cho mình những phương thức “phòng thủ” riêng khi gặp phải bệnh nhân hung hãn, kích động.

Bác sĩ Phạm Thị Thu cho biết, lúc đi học, chị dành sự quan tâm đặc biệt với chuyên khoa tâm thần. Bởi với bác sĩ trẻ, bệnh này khác hẳn so với các bệnh nội khoa khác. “Đây là căn bệnh mà bác sĩ khám chủ yếu qua các triệu chứng lâm sàng, không dùng bất cứ hình thức xét nghiệm nào. Nguyên nhân của bệnh là do gene, nhưng mọi người trong xã hội nghĩ rằng đây là căn bệnh ma ám, căng thẳng. Bệnh nhân cũng thường bị kỳ thị, do đó không được điều trị hẳn hoi, khi vào viện, tình trạng đã trở nặng. Là một bác sĩ, tôi thấy rất thương họ”, bác sĩ Thu chia sẻ.

Gần 10 năm gắn bó với những bệnh nhân mắc bệnh lý nhạy cảm, có không ít những chuyện vui, chuyện buồn về nghề, nhưng với bác sĩ Thu mỗi bệnh nhân là một cuộc đời, một số phận khác nhau và họ cần được đồng cảm trong quá trình điều trị. Cũng chính vì thế, cho dù không ít lần bị bệnh nhân “quấy nhiễu”, nhưng chị cùng các đồng nghiệp vẫn lặng thầm chăm lo cho người bệnh. “Có bệnh nhân nữ 63 tuổi bị trầm cảm căng trương lực không chịu ăn uống, tiểu tiện không tự chủ. Khi mình vào khám là bệnh nhân chửi bới, phải tiêm thuốc. Nhưng khi tiêm thuốc dễ gây ra tình trạng bí tiểu. Lúc đó em phải ở lại chờ đến lúc bệnh nhân đi tiểu được, nếu không phải chỉ định đặt xông tiểu rồi mới về. Hoặc là bệnh nhân không chịu nói, mình động viên thế nào bệnh nhân cũng vẫn im lặng. Trăn trở với bệnh nhân đến nỗi đêm nằm mơ thấy bệnh nhân nói cười với mình, nhưng sáng hôm sau đi làm bệnh nhân vẫn chưa nói được”, bác sĩ Thu kể.

Những năm gần đây, khoa tiếp nhận rất đông bệnh nhân. Bệnh có xu hướng trẻ hóa với độ tuổi trung bình từ 15-50 tuổi. Trung bình mỗi ngày phòng khám của Bệnh viện Quân y 103 điều trị khoảng 60 đến 80 bệnh nhân ngoại trú và có khoảng 94 đến 100 bệnh nhân điều trị nội trú tại Khoa Tâm thần. Bệnh nhân có độ tuổi trung bình từ 20-50, mắc các loại bệnh tâm thần khác nhau. Người bị tâm thần phân liệt, người rối loạn trầm cảm, người lại chán ăn, rối loạn cảm xúc lưỡng cực...

Nếu nhìn vào công việc mà các nữ nhân viên y tế ở đây đang làm, nhiều người sẽ nghĩ chăm sóc cho những bệnh nhân mắc bệnh lý nhạy cảm này rất vất vả, thậm chí nguy hiểm. Nhưng với các chị, có lẽ vì đã quá quen, nên luôn thấy công việc của mình bình thường như các bác sĩ ở các chuyên khoa khác. “Thật ra em nghĩ mình không vất vả vì khi vào làm là bị cuốn vào công việc. Hoặc cũng vì quen rồi nên thấy mọi thứ bình thường, chỉ thấy thương người bệnh”, điều dưỡng Trần Thị Thanh Phương chia sẻ.

Là điều dưỡng nên hằng ngày chị Trần Thị Thanh Phương thường xuyên tiếp xúc với bệnh nhân. Không chỉ là tiêm, truyền, phát thuốc, hỗ trợ bác sĩ làm thủ thuật mà đôi khi chị còn phải hỗ trợ bệnh nhân vệ sinh cá nhân. Nhiều năm gắn bó với nghề, chị Phương không nhớ hết bệnh nhân, cũng không nhớ nhiều về những kỷ niệm với nghề vì với chị mỗi ca bệnh đều rất đặc biệt. Nhưng bây giờ có nhiều bệnh nhân đến tái khám, gặp chị đều hồ hởi, vui vẻ như gặp người quen của mình.

PGS, TS, Đại tá Bùi Quang Huy, Trưởng khoa Tâm thần, Bệnh viện Quân y 103 cho biết, hiện nay khoa có 30 nhân viên, nhưng chỉ có ba bác sĩ và hai điều dưỡng là nữ. Theo ông như thế là đã “may” rồi vì trước đó nhiều năm liền khoa chỉ có duy nhất một bác sĩ nữ. Lý giải về việc ít nhân lực nữ làm chuyên ngành tâm thần, bác sĩ Huy cho rằng vì chăm sóc và điều trị cho người bệnh bình thường đã vất vả nhưng với những bệnh nhân tâm thần thì sự vất vả còn nhân lên gấp bội phần. Có lẽ vì thế mà không nhiều y, bác sĩ nữ lựa chọn chuyên khoa này.

Và, để giảm áp lực công việc, giữ chân các cán bộ nữ trong môi trường đặc thù, PGS, TS Bùi Quang Huy thường nhìn vào mặt tích cực của nghề để động viên chị em: “Có những bác sĩ 10 năm ra trường không ai biết bác sĩ đó là ai, nhưng làm tâm thần chỉ 5-7 năm đã có tiếng rồi vì ít bác sĩ tâm thần”.

Ông nói thêm rằng “khoa mà không có bác sĩ nữ thì gay lắm vì dù sao phụ nữ có cái gọi là “quyền lực mềm”, họ nói bệnh nhân nghe ngay”. Không rõ “quyền lực mềm” mà bác sĩ Huy nói có hiệu quả đặc biệt như thế nào với nhóm bệnh lý đặc thù ở đây, nhưng quan sát cách họ giao tiếp, chuyện trò với bệnh nhân, tôi hiểu rằng, công việc của họ không đơn thuần chỉ là khám, kê thuốc mà còn đòi hỏi sự kiên trì, nhẫn nại và tình thương với bệnh nhân không may mắc phải căn bệnh mà trong xã hội vẫn còn sự kỳ thị.

Khoảng trống sau điều trị

Mặc dù điều trị thành công cho hàng nghìn người bệnh, song điều mà bác sĩ Thu cùng đồng nghiệp ở Khoa A6 luôn trăn trở là vấn đề tái hòa nhập cộng đồng của bệnh nhân sau khi xuất viện. Theo chị, hiện vẫn còn những khoảng trống trong chăm sóc, điều trị nhóm bệnh nhân mắc bệnh lý “đặc biệt” này khi họ trở về cộng đồng.

“Có bệnh nhân khi uống thuốc ổn định hoàn toàn, sau đó họ bỏ thuốc. Hỏi thì họ bảo vì hàng xóm bảo uống thuốc càng điên hơn...”, bác sĩ Thu chia sẻ về một trường hợp mà theo chị là không hiếm gặp ở những bệnh nhân đã được điều trị ổn định trở về cộng đồng.

Vậy điều gì tạo ra khoảng trống này? Theo bác sĩ Thu, nguồn nhân lực làm công tác chăm sóc sức khỏe tâm thần hiện nay còn rất hạn chế. Hầu như chỉ có cơ sở chuyên khoa tâm thần cung cấp dịch vụ, còn phần lớn các bệnh viện tuyến huyện không có chuyên khoa tâm thần.

Chúng tôi đã gặp ở Khoa Tâm thần - Bệnh viện Quân y 103 nhiều bệnh nhân ở các huyện miền núi xa xôi của tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Nghệ An… phải về đây điều trị. Điều này cho thấy còn nhiều khó khăn trong tiếp cận dịch vụ để có thể phát hiện, đưa người bệnh vào điều trị sớm. Đây cũng là lý do vì sao kỹ thuật sốc điện đã được Khoa A6 chuyển giao đến nhiều bệnh viện tâm thần trên cả nước, nhưng không nhiều nơi triển khai được. Còn tại cộng đồng, hiện nay cán bộ y tế tuyến xã, phường, chỉ tập trung quản lý danh sách người bệnh tâm thần, cấp thuốc điều trị theo chỉ định của tuyến trên, không khám, chẩn đoán, kê đơn điều trị rối loạn tâm thần.

Một vấn đề nữa là vẫn còn sự định kiến đối với người có vấn đề về sức khỏe tâm thần, thậm chí ngay trong gia đình cũng kỳ thị người bệnh. Thông thường bệnh nhân sau khi tái hòa nhập cộng đồng, muốn duy trì ổn định phải được chăm sóc, quản lý tốt vì tâm thần là bệnh mạn tính dễ tái phát. Tuy nhiên do không có sự đồng hành của bác sĩ, không có sự hiểu biết của bệnh nhân và người nhà, cùng với tâm lý kỳ thị người bệnh khiến họ rơi vào trạng thái cô đơn, lạc lõng ở chính nơi mình sinh sống. “Chính điều này làm cho bệnh trầm trọng hơn hoặc dễ làm bệnh tái phát đối với những người đã được điều trị ổn định. Chăm sóc sau điều trị mới là quan trọng”, bác sĩ Thu nói.

Theo PGS, TS Bùi Quang Huy, có khoảng 1% dân số mắc bệnh tâm thần phân liệt, chưa kể đến những rối loạn tâm thần khác như lo âu, trầm cảm đang có xu hướng ngày càng tăng trong xã hội hiện đại, vì vậy cần đẩy nhanh các giải pháp để lấp đầy khoảng trống trong chăm sóc và quản lý người bệnh.

Xem thêm