Chín tháng năm 2025, cả nước có 230 nghìn doanh nghiệp thành lập mới và quay trở lại hoạt động. Ảnh: THÀNH ĐẠT
Chín tháng năm 2025, cả nước có 230 nghìn doanh nghiệp thành lập mới và quay trở lại hoạt động. Ảnh: THÀNH ĐẠT

Đòn bẩy cho mục tiêu 2 triệu doanh nghiệp

Để đạt mục tiêu 2 triệu doanh nghiệp vào năm 2030, theo các chuyên gia, cần xây dựng được một môi trường kinh doanh thật sự thuận lợi, minh bạch và đáng tin cậy - nơi mỗi người dân có khát vọng kinh doanh đều cảm thấy an toàn khi bắt đầu, được hỗ trợ khi gặp khó khăn và được tôn vinh khi thành công.

Mục tiêu lớn trong giai đoạn bản lề

Việt Nam đang bước vào giai đoạn bản lề của quá trình phát triển kinh tế. Làm thế nào để có ít nhất 2 triệu doanh nghiệp hoạt động chính thức vào năm 2030 là câu hỏi lớn, nhất là khi hiện nay cả nước mới có chưa tới 1 triệu doanh nghiệp.

Sau khi Nghị quyết 68 NQ/T.Ư về phát triển kinh tế tư nhân được ban hành, mỗi tháng bình quân có hơn 19.100 doanh nghiệp thành lập mới, tăng gần 48% so với mức bình quân những tháng trước đó. Theo Cục Thống kê (Bộ Tài chính), chín tháng đầu năm 2025, cả nước có 230 nghìn doanh nghiệp thành lập mới và quay trở lại hoạt động, tăng gần 25% so với cùng kỳ năm ngoái.

Đây là tín hiệu tích cực, cho thấy niềm tin của người dân và cộng đồng doanh nghiệp đang được khơi dậy trở lại sau giai đoạn khó khăn kéo dài bởi đại dịch Covid-19 và những biến động toàn cầu. Tuy nhiên, mặt khác, số doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường vẫn ở mức cao, với gần 198.000 doanh nghiệp rời thị trường trong năm 2024.

Điều này cho thấy bài toán không chỉ là “tạo thêm” doanh nghiệp, mà quan trọng hơn là “giữ được” doanh nghiệp, giúp họ phát triển bền vững, vượt qua khó khăn và tiếp tục đóng góp cho nền kinh tế.

Muốn đạt được điều đó, theo ông Đậu Anh Tuấn, Phó Tổng Thư ký Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), “chìa khóa” chính là niềm tin. “Niềm tin để hộ kinh doanh chuyển thành doanh nghiệp, niềm tin để doanh nghiệp không rút khỏi thị trường, niềm tin về chính sách hỗ trợ hiệu quả và niềm tin vào triển vọng khởi nghiệp tươi sáng”, ông Tuấn nói.

Niềm tin để hộ kinh doanh “ra ánh sáng”

Một trong những dư địa lớn nhất để phát triển thêm nhiều doanh nghiệp ở Việt Nam là khu vực hộ và cá nhân kinh doanh. Hiện nay, cả nước có khoảng 5 triệu hộ kinh doanh, trong đó chỉ hơn 2 triệu hộ đăng ký chính thức. Đây là lực lượng tạo ra giá trị kinh tế rất lớn nhưng phần lớn vẫn hoạt động trong khu vực phi chính thức, gặp khó khăn trong việc tiếp cận vốn, công nghệ, thị trường và chính sách hỗ trợ.

Do vậy, việc khuyến khích hộ kinh doanh chuyển đổi thành doanh nghiệp là hướng đi đúng đắn, song để thành công, chính sách phải được thiết kế phù hợp với thực tiễn.

“Nếu vẫn áp dụng các quy định phức tạp về kế toán, thuế, bảo hiểm xã hội như với doanh nghiệp thông thường, các hộ kinh doanh sẽ không có động lực để chuyển đổi”, ông Tuấn nhận định và góp ý, cần sớm xây dựng khung pháp lý riêng cho doanh nghiệp siêu nhỏ và cá nhân kinh doanh. Chính sách nên đa dạng, linh hoạt, cho phép người dân từng bước “ra ánh sáng”, thay vì “ép” họ chuyển đổi.

Các nghiên cứu gần đây cho thấy, nguyên nhân khiến doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường rất đa dạng: chi phí tuân thủ cao, quy định thay đổi liên tục, khó tiếp cận vốn, mặt bằng và nhân lực chưa phù hợp. Đặc biệt, các doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ (chiếm hơn 90% tổng số doanh nghiệp) có sức chống chịu yếu, dễ bị tổn thương trước biến động. Vì vậy, cần tổ chức nghiên cứu định kỳ để nắm rõ nguyên nhân gốc rễ khiến doanh nghiệp “rời sân”, thay vì chỉ thống kê số lượng. Đồng thời, thiết lập hệ thống cảnh báo sớm và cơ chế phản hồi chính sách để kịp thời điều chỉnh quy định chưa phù hợp, qua đó củng cố niềm tin của cộng đồng doanh nghiệp.

231.jpg
Khu vực hộ và cá nhân kinh doanh là một trong những dư địa để phát triển thêm nhiều doanh nghiệp ở Việt Nam. Ảnh: KHIẾU MINH

Cần chính sách hỗ trợ hiệu quả

Doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) là lực lượng “xương sống” của nền kinh tế, nhưng các chương trình hỗ trợ hiện nay còn dàn trải, hình thức. Luật Hỗ trợ DNNVV ban hành từ năm 2017 nhưng vẫn còn nhiều bất cập, thiếu nguồn lực và cơ chế điều phối hiệu quả. Nhiều doanh nghiệp phản ánh họ “không chạm tới” các chính sách ưu đãi, trong khi năng lực quản trị yếu, khó tiếp cận tín dụng, thiếu thông tin thị trường.

Vì vậy, đại diện VCCI cho rằng, cần cải cách mạnh mẽ hệ thống hỗ trợ doanh nghiệp theo hướng thị trường hóa. Nhà nước đóng vai trò “bà đỡ thông minh”, đặt hàng các tổ chức trung gian chuyên nghiệp cung cấp dịch vụ hỗ trợ như đào tạo, tư vấn, chuyển đổi số. Chính sách hỗ trợ phải phân loại theo nhóm doanh nghiệp: doanh nghiệp khởi nghiệp cần kỹ năng và kết nối; doanh nghiệp sản xuất cần công nghệ và tín dụng; doanh nghiệp xuất khẩu cần xúc tiến thương mại và thông tin thị trường. Cách tiếp cận “một cỡ cho tất cả” cần được thay thế bằng các giải pháp linh hoạt và thực chất.

Ngoài ra, để khởi nghiệp phát triển bền vững, cần bắt đầu từ giáo dục. Tức là, cần trang bị cho học sinh, sinh viên tư duy doanh nhân, kỹ năng kinh doanh thực tiễn và tinh thần đổi mới. Cùng với đó là các chương trình khởi nghiệp địa phương, vườn ươm ý tưởng, không gian làm việc chung, kết nối nhà đầu tư - những “bệ phóng” quan trọng để ý tưởng kinh doanh thành hiện thực.

Bên cạnh chính sách, truyền thông khởi nghiệp cũng đóng vai trò truyền cảm hứng. Những câu chuyện doanh nhân vượt khó, những mô hình làm ăn thành công cần được lan tỏa rộng rãi, để khơi gợi tinh thần “dám mơ lớn” trong thế hệ trẻ. Chính quyền địa phương cần chủ động coi khởi nghiệp là động lực tăng trưởng mới, với các chính sách cụ thể như giảm chi phí thuê đất, hỗ trợ tư vấn pháp lý và thuế, giúp doanh nghiệp nhỏ “trụ vững” những năm đầu tiên.

Tiếp cận thể chế linh hoạt và nhân văn

Theo TS Nguyễn Quốc Việt, chuyên gia Chính sách công (Trường đại học Kinh tế - Đại học Quốc gia Hà Nội), một nội dung quan trọng trong quá trình hướng tới 2 triệu doanh nghiệp là chính thức hóa khu vực hộ kinh doanh - nơi đang đóng góp lớn nhưng hoạt động phần lớn trong “vùng xám” của nền kinh tế.

Nghị định 70/NĐ-CP quy định, từ ngày 1/7/2025, các hộ kinh doanh có doanh thu hơn 1 tỷ đồng/năm trong một số lĩnh vực (ăn uống, khách sạn, bán lẻ, vận tải, thẩm mỹ, vui chơi giải trí...) phải sử dụng hóa đơn điện tử kết nối dữ liệu với cơ quan thuế. Theo thống kê, khoảng 37.000 hộ kinh doanh sẽ phải chuyển từ thuế khoán sang thuế kê khai. Dù đây là bước đi nhằm thúc đẩy chính thức hóa khu vực phi chính thức, song thực tế cho thấy, một bộ phận hộ kinh doanh có phản ứng tiêu cực. Nhiều người đóng cửa hàng, tạm dừng hoạt động, né chuyển khoản... Điều này phản ánh tâm lý lo ngại và thiếu niềm tin của người dân vào việc chính sách được triển khai công bằng và minh bạch.

Theo TS Việt, thay vì chỉ nhìn hộ kinh doanh qua lăng kính “quản lý thuế”, cần xem họ như một phần năng động của nền kinh tế thị trường, đang vận hành theo các thể chế phi chính thức - tức là hệ thống quy tắc, chuẩn mực và niềm tin được hình thành tự nhiên trong cộng đồng, giúp giao dịch diễn ra thuận lợi mà không cần quá nhiều can thiệp từ Nhà nước.

Ở bất kỳ nền kinh tế nào, khu vực phi chính thức hay “ngầm” đều tồn tại song song với khu vực chính thức. Nó phản ánh tính tự phát của thị trường và là “van an toàn” cho sinh kế của hàng triệu người dân. Tuy nhiên, khi hệ thống pháp luật còn yếu, thiếu minh bạch, hoặc chi phí tuân thủ quá cao, các chủ thể kinh doanh sẽ tìm cách né tránh khu vực chính thức.

Do đó, chính thức hóa khu vực phi chính thức không thể chỉ bằng mệnh lệnh hành chính, mà cần một quá trình cải cách thể chế sâu rộng, nhất quán và nhân văn, trong đó pháp luật phải được thiết kế sao cho hỗ trợ và tương thích với thực tiễn vận hành tự phát của thị trường.

Theo TS Nguyễn Quốc Việt, thành công của quá trình chính thức hóa phụ thuộc vào việc tìm ra điểm cân bằng giữa tăng cường quản lý với tạo thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp. Khi pháp luật được áp dụng bình đẳng, thủ tục đơn giản, quyền tài sản được bảo vệ rõ ràng, người dân sẽ tự nguyện ra “vùng sáng” vì họ thấy an toàn và có lợi ích thực chất.

Do đó, cải cách thể chế, đặc biệt trong lĩnh vực chính sách và quản lý thuế - cần hướng tới mục tiêu kép: tăng cường thu ngân sách nhưng đồng thời khuyến khích kinh doanh chính thức, qua đó mở rộng nền tảng doanh nghiệp bền vững.

Cả hai chuyên gia đều chung một quan điểm, để đạt mục tiêu 2 triệu doanh nghiệp, điều quan trọng nhất không nằm ở số lượng chính sách, mà ở chất lượng của niềm tin. Niềm tin ấy đến từ sự công bằng trong pháp luật, sự minh bạch trong thực thi, và sự đồng hành của Nhà nước với doanh nghiệp. Khi người dân cảm thấy an toàn để khởi nghiệp, khi doanh nghiệp thấy xứng đáng để tiếp tục đầu tư, khi chính quyền được tin cậy là “bạn đồng hành” chứ không phải “người giám sát”, khi ấy, cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam sẽ lớn mạnh.

Mục tiêu 2 triệu doanh nghiệp vào năm 2030 không chỉ là con số - đó là tầm nhìn về một nền kinh tế tự tin, bao trùm và sáng tạo, nơi mỗi cá nhân có thể phát huy năng lực, mỗi doanh nghiệp được bảo vệ và mọi nỗ lực kinh doanh đều được tôn trọng.

Xem thêm