Sự ra đời của Nghị quyết 72-NQ/T.Ư của Bộ Chính trị về một số giải pháp đột phá, tăng cường bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân (Nghị quyết 72) được kỳ vọng sẽ tháo gỡ những “nút thắt” lâu nay, tạo đột phá để y tế cơ sở thật sự trở thành nền tảng vững chắc của hệ thống y tế quốc gia.
Chưa thể khám BHYT tại y tế cơ sở
Trạm Y tế phường Phú Thượng (Hà Nội) vừa được thành lập mới sau khi triển khai chính quyền địa phương 2 cấp với trụ sở khang trang tại ngõ An Dương Vương, có chức năng cung cấp, thực hiện các dịch vụ chăm sóc sức khỏe ban đầu cho gần 5 vạn dân trên địa bàn phường. Theo thống kê, 60% người dân địa phương mắc các bệnh mãn tính như huyết áp, tiểu đường, hen phế quản, phổi tắc nghẽn mãn tính…, đều có nhu cầu khám, cấp phát thuốc định kỳ. Thế nhưng, dù mới, trạm vẫn thiếu máy xét nghiệm sinh hóa cơ bản, máy điện tim, monitor theo dõi, đặc biệt thiếu bác sĩ đa khoa, bác sĩ chuyên khoa sâu. Chính vì thế, số bệnh nhân mắc bệnh mãn tính - chủ yếu là người hưu trí, cao tuổi… vẫn chưa thể khám và nhận thuốc theo chế độ bảo hiểm y tế (BHYT) tại nơi mình sinh sống.
Theo đại diện của Trạm, hiện đơn vị chỉ có bác sĩ làm công tác y tế dự phòng, dân số kế hoạch hóa - gia đình và đông y nên đã gửi văn bản lên Sở Y tế Hà Nội xin bác sĩ đa khoa, chuyên khoa về công tác. “Chúng tôi được biết, Sở sẽ điều bác sĩ ở các bệnh viện đa khoa tuyến trên về nhưng khó lắm! Vấn đề đầu tiên là thu nhập, làm sao phải bảo đảm cho bác sĩ như ở đơn vị cũ, chưa kể về chuyên môn, trạm y tế cơ sở còn thiếu trang thiết bị, danh mục kỹ thuật được phép triển khai hạn chế. Điều này khiến bác sĩ khó có cơ hội phát huy chuyên môn, dễ cảm thấy “bị bó hẹp tay nghề”, đại diện Trạm chia sẻ.
Còn ở một địa bàn vùng núi như phường Sa Pa (tỉnh Lào Cai), sau khi triển khai chính quyền địa phương 2 cấp, cơ sở vật chất và trang thiết bị ở các trạm y tế, phân trạm chưa đầy đủ theo danh mục, quy định của Bộ Y tế. Nhân lực bác sĩ đa khoa để thực hiện các dịch vụ chuyên môn kỹ thuật vẫn thiếu trầm trọng. Đối với các phân trạm y tế trực thuộc phường Sa Pa như: Ô Quy Hồ, Sa Pả, Cầu Mây hiện vẫn chưa thực hiện công tác khám, chữa bệnh BHYT…
Bác sĩ Vũ Thị Lệ Thủy, Giám đốc Trung tâm Y tế (TTYT) khu vực Sa Pa chia sẻ: “Chúng tôi vẫn khám “chay”, thiếu từ máy siêu âm, máy sinh hóa đến các thiết bị xét nghiệm… TTYT phụ trách địa bàn hơn 7 vạn dân địa phương, có ngày khách du lịch lưu trú lên tới 4 vạn, nhưng chỉ có 9 bác sĩ. Toàn khu vực cũng có 6 trạm y tế nhưng mới có 5 bác sĩ. Bác sĩ chủ yếu vẫn là người sinh sống ở đây nên gắn bó với công việc được lâu năm, còn nơi khác chuyển về thì không có. Một số chuyên ngành như: điều dưỡng, nữ hộ sinh… đều rất khó tuyển dụng”. Nghĩ đến đội ngũ bác sĩ trẻ kế cận tương lai, bác sĩ Thủy e ngại: “Trường đại học Y vốn tuyển sinh khó, học phí tới 60 triệu đồng/năm học nên sau tốt nghiệp rất khó để tuyển được bác sĩ trẻ về với vùng núi, vùng sâu, vùng xa”.
Bên cạnh đó, địa bàn mở rộng, một số nơi ở xa như thôn Nậm Ngấn thuộc xã Mường Bo muốn đến với TTYT khu vực Sa Pa, người dân phải vượt quãng đường dài tới 50 km, đến với điểm trạm y tế là 12 km. Hạ tầng giao thông chưa có, địa hình và thời tiết bất lợi khiến đồng bào khó tiếp cận với các trạm, điểm trạm y tế trong công tác chăm sóc sức khỏe.
Vì những khó khăn này nên để duy trì các hoạt động chăm sóc sức khỏe ban đầu cho nhân dân như tiêm chủng, dự phòng dịch bệnh, cán bộ TTYT khu vực Sa Pa lại “trèo đèo, lội suối” về từng thôn để vận động người dân, hoặc phụ thuộc vào các đợt của các bệnh viện tuyến trên về hỗ trợ khám sức khỏe cho bà con. “Với người dân ở các xã đặc biệt khó khăn, nhiều hộ nghèo có thẻ BHYT được nhà nước cấp miễn phí nhưng chi phí đi lại, ăn ở khi điều trị xa nhà vẫn là gánh nặng. Đường núi hiểm trở xa trung tâm, mùa mưa dễ sạt lở, lũ quét, người dân khó di chuyển đến trạm, điểm trạm y tế kịp thời, họ vẫn ngại đi khám nên đã tự chữa bệnh theo kinh nghiệm dân gian, cúng bái, thuốc nam”, bác sĩ Thủy cho biết.
Hai thực tế ở đô thị và miền núi cho thấy, dù hoàn cảnh khác nhau nhưng y tế tuyến cơ sở vẫn gặp những khó khăn tương đồng. Đó cũng là những lý do khiến nhiều bác sĩ trẻ ngại gắn bó lâu dài với tuyến cơ sở.

Từ nghị quyết đến hành động
Những bất cập trên cũng chính là lý do Nghị quyết 72 được kỳ vọng sẽ giải đáp được bài toán căn cơ của y tế cơ sở.
Tại Trạm Y tế phường Phú Thượng (Hà Nội), bước đầu, Sở Y tế Hà Nội chỉ đạo hằng tuần, Bệnh viện Hòe Nhai cử y, bác sĩ có chuyên môn xuống Trạm Y tế phường khám và chăm sóc sức khỏe nhân dân trên địa bàn. Ngược lại, các nhân viên y tế trên địa bàn phường thực hành khám, chữa bệnh tại Bệnh viện Hòe Nhai để cấp giấy xác nhận thực hành tại bệnh viện nhằm phục vụ hồ sơ cấp giấy chứng chỉ hành nghề. Hai đơn vị cùng phối hợp tổ chức khám sức khỏe định kỳ, tầm soát bệnh không lây nhiễm (tăng huyết áp, đái tháo đường, tim mạch, ung thư sớm…) cho người dân, đặc biệt là người trên 60 tuổi.
Tại Trạm Y tế phường Phú Thượng (Hà Nội), bước đầu, Sở Y tế Hà Nội chỉ đạo hằng tuần, Bệnh viện Hòe Nhai cử y, bác sĩ có chuyên môn xuống Trạm Y tế phường khám và chăm sóc sức khỏe nhân dân trên địa bàn. Ngược lại, các nhân viên y tế trên địa bàn phường thực hành khám, chữa bệnh tại Bệnh viện Hòe Nhai để cấp giấy xác nhận thực hành tại bệnh viện nhằm phục vụ hồ sơ cấp giấy chứng chỉ hành nghề. Hai đơn vị cùng phối hợp tổ chức khám sức khỏe định kỳ, tầm soát bệnh không lây nhiễm (tăng huyết áp, đái tháo đường, tim mạch, ung thư sớm…) cho người dân, đặc biệt là người trên 60 tuổi.
Từ thực tiễn làm việc tại tuyến y tế cơ sở, bác sĩ chuyên khoa I Dương Văn Quân, Giám đốc TTYT Phong Thổ (tỉnh Lai Châu) đề xuất một số giải pháp trọng tâm nhằm triển khai tốt Nghị quyết 72 tại địa phương. Theo đó, về tổ chức bộ máy: Cần xây dựng mô hình TTYT khu vực đa chức năng, vừa đảm nhiệm dự phòng, vừa điều trị như một bệnh viện đa khoa cơ bản. Các trạm y tế xã nên duy trì trạm chính cùng các điểm trạm vệ tinh ở những bản xa, nhằm bảo đảm “gần dân - sát dân”.
Về cơ sở vật chất, trang thiết bị: Đầu tư hạ tầng y tế phải có trọng tâm, trọng điểm, tránh dàn trải, ưu tiên các xã vùng sâu vùng xa, vùng biên giới có khu điều trị tạm thời, khu dự phòng dịch bệnh và các hạng mục phụ trợ thiết yếu nhằm cung ứng dịch vụ y tế tới từng người dân ở từng thôn, bản. Tập trung cho các TTYT khu vực với nhà cửa kiên cố, đáp ứng các yêu cầu cơ bản về hồi sức, cấp cứu, ngoại khoa, sản khoa, thăm dò chức năng, cận lâm sàng, y học cổ truyền, phục hồi chức năng. Trang thiết bị nên ưu tiên các phương tiện chẩn đoán cơ bản như máy CT scanner, siêu âm, điện tim, xét nghiệm thường quy, nội soi tai mũi họng, răng hàm mặt, để người dân tiếp cận dịch vụ chất lượng ngay tại địa bàn, những bệnh thông thường không phải chuyển tuyến trên điều trị, qua đó góp phần giảm chi phí khám, chữa bệnh cho nhân dân.
Về nhân lực y tế: Để giữ chân và thu hút bác sĩ, điều dưỡng về cơ sở, cần có chính sách đãi ngộ đặc thù về lương, phụ cấp, nhà ở công vụ. Trong giai đoạn đầu, có thể áp dụng hình thức luân phiên, điều động bác sĩ từ tuyến tỉnh và TTYT khu vực mạnh hơn về hỗ trợ. Về lâu dài cần đào tạo theo địa chỉ các bác sĩ, điều dưỡng, có kế hoạch tuyển dụng các con em người địa phương ngay khi các em còn ngồi ghế nhà trường THPT, để xây dựng nguồn nhân lực bền vững.
Về tài chính: Y tế cơ sở miền núi rất cần một cơ chế tài chính ổn định. Việc giao tự chủ toàn phần cho các TTYT khu vực ở vùng khó khăn chưa phù hợp. Nhà nước nên bảo đảm chi thường xuyên, tiền lương và một phần chi phí vận hành, để cơ sở tập trung nâng cao chất lượng chuyên môn thay vì lo “tự cân đối thu chi” hoặc tự chủ một phần.
Về chỉ đạo tuyến và chuyên môn: Cần tăng cường hỗ trợ kỹ thuật, đào tạo liên tục từ tuyến tỉnh, tuyến T.Ư xuống các TTYT. Việc chuyển giao kỹ thuật phải gắn với trách nhiệm rõ ràng, đo lường bằng các chỉ số cụ thể, khi nào cơ sở thật sự làm được mới coi là thành công.
Về sự phối hợp của địa phương: Chính quyền từ tỉnh đến xã cần quan tâm bố trí nguồn lực, tháo gỡ kịp thời vướng mắc về cơ chế, và coi đầu tư cho y tế cơ sở là nền tảng của công tác an sinh xã hội vùng biên.