Từ Ủy ban dân tộc Giải phóng Việt Nam
Chiều 16/8/1945, Quốc dân Đại hội bắt đầu họp ở đình Tân Trào, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang (xã Tân Trào, tỉnh Tuyên Quang bây giờ). Hơn 60 đại biểu từ Nam Bộ, Nam Trung Bộ và Việt kiều ở Xiêm (nay là Thái Lan), ở Lào ngồi trang nghiêm trên những chiếc ghế gỗ sơ sài.
Bên trên, lá cờ đỏ sao vàng căng sát vách tường. Ông Toàn (bí danh của Tổng Bí thư Trường Chinh) và ông Tống (bí danh của đồng chí Phạm Văn Đồng) điều khiển cuộc họp. Hai đại biểu Khuất Duy Tiến và Cù Huy Cận được cử làm Thư ký đoàn của Đại hội.
Ông Trường Chinh chững chạc trong bộ âu phục, còn ông Hoàng Quốc Việt thì vẫn bộ quần áo nâu cũ và đội chiếc khăn xếp cũ sờn. Các ông Bút (bí danh của ông Trần Huy Liệu), ông Sao Đỏ (bí danh của ông Nguyễn Lương Bằng), ông Tống, và ông Dương Đức Hiền được đề cử làm Chủ tịch đoàn, thay phiên nhau điều khiển Đại hội.
Đại hội nhất trí tán thành chủ trương Tổng khởi nghĩa của Đảng Cộng sản Đông Dương và thông qua Mười chính sách lớn của Mặt trận Việt Minh.
Đại hội Quốc dân làm việc khẩn trương từ chiều ngày 16 tới hết ngày 17/8/1945, bầu ra Ủy ban Dân tộc Giải phóng Việt Nam gồm 15 thành viên: Hồ Chí Minh, Trần Huy Liệu, Nguyễn Lương Bằng, Đặng Xuân Khu (Trường Chinh), Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng, Dương Đức Hiền, Chu Văn Tấn, Nguyễn Văn Xuân, Cù Huy Cận, Nguyễn Đình Thi, Lê Văn Hiến, Nguyễn Chí Thanh, Phạm Ngọc Thạch, Nguyễn Hữu Đang. Trong đó Cụ Hồ Chí Minh làm Chủ tịch Ủy ban, ông Trần Huy Liệu làm Phó Chủ tịch Ủy ban. Thường trực Ủy ban gồm 5 thành viên: Hồ Chí Minh, Trần Huy Liệu, Phạm Văn Đồng, Nguyễn Lương Bằng, Dương Đức Hiền.
Ngay sau đó, Ủy ban Dân tộc Giải phóng đã ra tuyên bố gửi đến nhân dân cả nước: Ủy ban Dân tộc Giải phóng do Đại hội Quốc dân bầu ra, “có nhiệm vụ như một Chính phủ lâm thời”, lãnh đạo nhân dân “thực hiện mục đích tối cao là làm cho nước nhà được hoàn toàn độc lập”.
Những ngày sau đó, tình hình chuyển biến nhanh chóng. Thời cơ nghìn năm có một cho cuộc cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam đã đến. Lệnh Tổng khởi nghĩa truyền đi từ Tân Trào. Công việc chuẩn bị Tổng khởi nghĩa được tiến hành khẩn trương. Cả nước hưởng ứng lệnh Tổng khởi nghĩa.
Hà Nội giành chính quyền thắng lợi ngày 19/8/1945. Chính quyền về tay nhân dân kinh đô Huế ngày 23/8/1945. Tại Sài Gòn (nay là Thành phố Hồ Chí Minh), chính quyền mới ra mắt nhân dân sáng 25/8/1945. Sau đó, Vua Bảo Đại thoái vị, trao lại ấn và kiếm vàng là biểu tượng của chính quyền phong kiến cho đại diện Chính phủ lâm thời chiều 30/8/1945.
Vậy là, sau ngày lịch sử 19/8/1945, chính quyền toàn quốc đã thuộc quản lý của Ủy ban Dân tộc Giải phóng Việt Nam. Trong thời gian này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã bí mật về ở và làm việc tại 48 phố Hàng Ngang (Thủ đô Hà Nội), nhà riêng của vợ chồng ông bà Trịnh Văn Bô - Hoàng Thị Minh Hồ.
Tổng Bí thư Trường Chinh (1907-1988) kể lại trong hồi ức (NXB Văn học, 1997):
“Vừa về tới 48 Hàng Ngang, Bác triệu tập họp ngay Thường vụ. Đây là cuộc họp mở rộng đầu tiên do Bác chủ trì tại Hà Nội. Trong cuộc họp, Người nhất trí với chủ trương của Thường vụ về những vấn đề đối nội và đối ngoại trong tình hình mới, về việc phải mở rộng thành phần Chính phủ lâm thời và công bố sớm danh sách các thành viên Chính phủ. Bác nói:
- Các chú mở rộng Chính phủ là đúng, nhưng chưa đủ, vẫn còn hẹp hòi. Bác đề nghị: phải mở rộng hơn nữa thành phần Chính phủ, bao gồm những đại biểu các tầng lớp nhân dân, các đảng phái yêu nước và những nhân sĩ không đảng phái; phải thảo bản Tuyên ngôn Độc lập và tổ chức một cuộc mít tinh lớn ở Hà Nội để Chính phủ lâm thời ra mắt nhân dân; ngày ra mắt của Chính phủ cũng là ngày nước Việt Nam chính thức công bố quyền độc lập và thiết lập chính thể dân chủ cộng hòa”.
Thực hiện chủ trương nói trên, 5 ông Trường Chinh, Nguyễn Lương Bằng, Nguyễn Hữu Đang, Nguyễn Chí Thanh, Nguyễn Đình Thi - thành viên Ủy ban Dân tộc Giải phóng Việt Nam - đã xin rút để nhường cho các nhân sĩ, trí thức yêu nước tham gia Chính phủ lâm thời.
Nhớ lại sự kiện này, Phó Chủ tịch nước Nguyễn Lương Bằng (1904-1979) bình luận: “Chính Bác nhắc chúng ta làm cách mạng giải phóng dân tộc là chỉ biết đem sức lực phục vụ nhân dân chứ không phải khi cách mạng thành công mà ta lại chiếm hết các cương vị trong Chính phủ, nên để cho người khác”.
Đánh giá về hành động tự rút lui, nhường ghế Bộ trưởng cho các nhân sĩ, trí thức tham gia Chính phủ lâm thời của các đảng viên Đảng Cộng sản, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Đó là cử chỉ vô tư, tốt đẹp, không ham chuộng địa vị, đặt lợi ích của dân tộc, của đoàn kết toàn dân lên trên lợi ích cá nhân”.
Ngày 28/8/1945, Chính phủ lâm thời được thành lập gồm 15 thành viên đã ra Tuyên cáo công bố rộng rãi trên các cơ quan báo chí tại Hà Nội, nêu rõ: “Chính phủ Lâm thời không phải là Chính phủ riêng của Mặt trận Việt Nam độc lập Đồng minh (Việt Minh) như có người đã lầm tưởng. Cũng không phải là một Chính phủ chỉ bao gồm đại biểu của các chính đảng. Thật là một Chính phủ quốc gia thống nhất, giữ trọng trách là chỉ đạo cho toàn quốc, đợi ngày triệu tập được Quốc hội để cử ra một Chính phủ Dân chủ Cộng hòa chính thức”.
Chính phủ lâm thời gồm 13 bộ và 2 Bộ trưởng không Bộ. Chủ tịch Chính phủ kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao: Hồ Chí Minh; Bộ trưởng Bộ Nội vụ: Võ Nguyên Giáp; Bộ trưởng Quốc phòng: Chu Văn Tấn; Bộ trưởng Tuyên truyền: Trần Huy Liệu; Bộ trưởng Thanh niên: Dương Đức Hiền; Bộ trưởng Kinh tế Quốc gia: Nguyễn Mạnh Hà; Bộ trưởng Quốc gia Giáo dục: Vũ Đình Hòe; Bộ trưởng Tư pháp: Vũ Trọng Khánh; Bộ trưởng Y tế: Phạm Ngọc Thạch; Bộ trưởng Giao thông Công chính: Đào Trọng Kim; Bộ trưởng Lao động: Lê Văn Hiến; Bộ trưởng Tài chính: Phạm Văn Đồng; Bộ trưởng Cứu tế Xã hội: Nguyễn Văn Tố; Bộ trưởng không giữ Bộ nào: Cù Huy Cận và Nguyễn Văn Xuân.
Hoàn thành sứ mệnh lịch sử
Sáng 2/3/1946, Quốc hội do tổng tuyển cử được nhân dân cả nước bầu ra bằng hình thức phổ thông đầu phiếu cho tất cả công dân từ đủ 18 tuổi trở lên, nam nữ bình đẳng, đã họp phiên đầu tiên. Đại diện của 333 đại biểu Quốc hội của khắp ba miền bắc - trung - nam trong cả nước đã tề tựu về Nhà hát Lớn (Hà Nội).
Trong phiên họp đầu tiên của Quốc hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời báo cáo công việc đã làm trong 6 tháng đã qua và tuyên bố: “Bây giờ, Chính phủ xin giao lại quyền cho Quốc hội để tổ chức một chính phủ mới: chính phủ kháng chiến và kiến quốc”.
Chính phủ do Quốc hội bầu ra ngày 2/3/1946 gồm 10 Bộ cùng hai cơ quan trực thuộc là Cố vấn đoàn và Kháng chiến ủy viên hội (sau đổi thành quân ủy hội).
Như vậy, tính từ ngày 28/8/1945 ra mắt đến ngày kết thúc 2/3/1946, Chính phủ lâm thời đã có 181 ngày hoạt động.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tóm tắt hoạt động của Chính phủ lâm thời ngắn gọn trong 4 điểm khi báo cáo trước Quốc hội (ngày 2/3/1946) như sau:
“Việc thứ nhất là ra sức kháng chiến.
Việc thứ hai là giảm bớt sự đói kém bằng cách thực hành tăng gia sản xuất.
Việc thứ ba là Chính phủ đã tổ chức cuộc Tổng tuyển cử.
Việc thứ tư là do kết quả cuộc Tổng tuyển cử ấy mà có Quốc hội hôm nay” (Việt Nam Dân quốc Công báo, số 15, ngày 13/4/1946).