Các nữ thanh niên xung phong ngày ấy kể chuyện về chiến trường Trường Sơn tại chương trình giao lưu.
Các nữ thanh niên xung phong ngày ấy kể chuyện về chiến trường Trường Sơn tại chương trình giao lưu.

Những “bông hồng thép” ở Trường Sơn năm ấy

Tại chương trình giao lưu truyền thống với chủ đề “Trường Sơn một thời con gái”, chuyện kể của những nữ thanh niên xung phong thời bom đạn khiến nhiều bạn trẻ rơi nước mắt vì xúc động, tự hào. Ở quãng đời đẹp nhất, họ cất giấu niềm riêng, cùng tham gia chiến đấu, đợi ngày toàn thắng trở về.

Đi theo tiếng gọi non sông

Năm 1959, Bác Hồ và Trung ương Đảng quyết định giao nhiệm vụ cho đoàn công tác đặc biệt tìm đường vận tải chiến lược chi viện sức người, sức của cho cách mạng miền nam và giúp cách mạng Lào, Campuchia. Suốt 16 năm liền, hai vạn nữ chiến sĩ Trường Sơn cùng các lực lượng chuyên tuyến chi viện đã xây dựng được hệ thống đường xe cơ giới với 5 trục dọc, 21 trục ngang, gần 20 nghìn km đường, hàng nghìn cầu cống ngầm, đường ống xăng dầu dài 1.400 km, 1.350 km đường dây tải ba và hàng vạn km đường dây thông tin các loại để bảo đảm cho chỉ huy thống nhất kịp thời từ Hà Nội đến tất cả các hướng chiến trường của ba nước Đông Dương.

Hệ thống mà phương Tây gọi là “trận đồ bát quái” ấy đã tạo ra hàng nghìn km đường giao liên để đón đưa hai triệu lượt người ra vào chiến trường an toàn, xây dựng được 600 km đường sông thả hàng trôi về các hướng chiến trường. Năm 1965, khi vừa tròn 17 tuổi, bà Lê Thị Luận rời quê nhà Thanh Hóa vào Trường Sơn nhận nhiệm vụ của thanh niên xung phong. “Chúng tôi xẻ núi, san lấp hố bom, bảo đảm những con đường thông ra tiền tuyến. Mặc bom đạn khắp nơi, những cô gái trẻ vẫn hiên ngang. Trên suốt con đường mang tên Bác, bao đồng đội của tôi đã ngã xuống khi xếp hàng làm cọc tiêu cho xe qua những ngầm phà trọng điểm. Trong chuỗi ngày gian khó ấy, chúng tôi vẫn giữ trọn niềm tin tất thắng, hẹn ngày hòa bình gặp lại ở quê hương”, bà Luận xúc động nhớ lại chuyện xưa.

Trong giai đoạn khốc liệt của cuộc chiến, đế quốc Mỹ đã tiến hành hàng trăm nghìn cuộc oanh kích, trút xuống núi rừng Trường Sơn hơn bốn triệu tấn bom đạn các loại cùng 80 triệu lít chất độc hóa học. Nhìn đồng đội hy sinh vì bom đạn, bệnh tật, bà cùng các chị em siết chặt tay nhau, nguyện biến đau thương thành hành động. Bà Luận kể, ngay cả khi đói rét, kiệt sức, họ vẫn động viên nhau “Sống bám đường - Chết kiên cường, dũng cảm”, không để mạch giao thông tắc dù chỉ một phút. Khi lũ tràn về, ngập các con suối, những thiếu nữ đôi mươi ngày ấy cùng tạo ra “cây cầu người” bằng cách để các tấm ván trên vai, nối nhau vượt suối hình thành đường giúp cáng thương đi qua an toàn.

Đợi ngày trở về bên mẹ

Tháng 7/1965, bà Nguyễn Thị Đoàn nhập ngũ, được phân công làm nhiệm vụ trên cung đường 20 Quyết Thắng, từ Phong Nha - Quảng Trị theo hướng Đông-Tây để nối với hệ thống trục dọc của đường Trường Sơn trên đất bạn Lào. Cua chữ A - ngầm Tà Lê - đèo Phu La Nhích ngày ấy được gọi là “tọa độ lửa - tọa độ chết”, nơi đẫm máu và nước mắt của những con người quả cảm. Từ động Phong Nha - Quảng Bình, trên đường hành quân, giặc Mỹ thả pháo sáng, cho B52 đuổi theo, quyết tiêu diệt đến cùng.

Bà Đoàn nhớ lại khoảnh khắc buồn nhất, giọng ngậm ngùi: “Hôm ấy, đơn vị có hai đồng chí hy sinh, đau lòng lắm nhưng chúng tôi vẫn hành quân mở đường bảo đảm giao thông. Đây là trọng điểm đánh phá ác liệt của kẻ thù. Ngày cũng như đêm, B52 luôn gầm rú nhưng chúng tôi vẫn quyết tâm giữ giao thông thông suốt, chi viện cho chiến trường.

Những năm tháng chiến đấu tại Trường Sơn cũng in đậm trong tâm trí bà Lê Thị Lài và đồng đội. Mười tám, đôi mươi, họ chọn vào Trường Sơn, hiểm nguy nhưng đầy tự hào. Ba-lô nặng trĩu trên vai, đôi dép cao su mòn dần qua dốc núi, đêm nằm giữa Trường Sơn, tiếng côn trùng rả rích hòa với tiếng mưa, tiếng pháo phá mìn làm đường. Có những hôm đường trơn, mưa lớn, sinh lầy, họ dàn hàng ngang đẩy sình lầy xuống tà luy. Mỗi bước chân đi là một lần té ngã nhưng ai cũng động viên nhau cố gắng hết sức, bảo vệ an toàn cho các tuyến đường trọng điểm.

Cơm không đủ no, muối chia nhau từng nhúm nhỏ, quần áo chưa kịp khô phải mặc, lắm lúc phải đào giun sống để nuốt cho cắt cơn sốt rét vì thiếu thuốc ký ninh… “Khổ cực là thế, nhưng trong rừng Trường Sơn, chúng tôi vẫn cười, vẫn hát. Có những đêm được nghỉ, chúng tôi nằm quanh bếp lửa hát cho nhau nghe. Hát để át tiếng bom, hát cho vơi nỗi nhớ nhà. Tình thương đồng đội, tình chị em lúc ấy thật thiêng liêng. Ai ốm đau, chúng tôi chia nhau chăm sóc, cõng nhau đi qua hàng chục cây số đến trạm quân y. Nhận thư từ hậu phương, cả đơn vị chuyền tay nhau đọc chung một lá. Ngày đất nước hòa bình, chúng tôi ôm nhau khóc, nước mắt hòa vào mưa rừng. Chúng tôi thương đồng đội nằm lại, mừng Tổ quốc hoàn toàn độc lập”, bà Lài chia sẻ kỷ niệm tại chiến trường xưa.

Chiến tranh khép lại, những “bông hồng thép” được trở về quê hương, ôm mẹ vào lòng cho vơi nỗi nhớ mong. Bà Nguyễn Thị Bình, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Hội Trường Sơn Việt Nam, Trưởng ban Công tác Nữ Hội Trường Sơn Thành phố Hồ Chí Minh cũng quay về, tập trung phát triển kinh tế và tham gia hoạt động xã hội. Thế nhưng, những năm tháng cùng đồng đội rèn luyện và chiến đấu ở Trường Sơn đã hằn sâu trong ký ức, chưa bao giờ bà có thể quên. Nhớ mãi những lúc đắp chung chiếc chăn mỏng, chia nhau miếng cơm, ngụm nước, sốt rét rừng co quắp chân tay. “Gặp lại nhau sau chiến tranh, tôi thương lắm những đồng đội là thương binh, bị nhiễm chất độc da cam, những người bạn hoàn cảnh khó khăn trong cuộc sống. Mỗi khi gặp nhau, chúng tôi thường bắt đầu bằng những cái ôm thật chặt và xúc động đến rơi nước mắt”, bà Bình nói, giọng nghẹn ngào.

Thời chiến một lòng hướng về Tổ quốc, thời bình, bà dành trọn tâm huyết cho công tác nghĩa tình đồng đội. Bà đóng góp và kêu gọi gia đình, người thân, bạn bè chung tay để có kinh phí đi khắp nơi xây nhà tình nghĩa, hỗ trợ đồng đội năm xưa xóa đói, giảm nghèo, xây bia tưởng niệm các anh hùng, liệt sĩ, đồng hành cùng các chương trình giao lưu, giáo dục truyền thống cho thế hệ trẻ. Bà nói, chỉ mong có đủ sức khỏe để mỗi năm cùng chồng đến Nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn thắp nén nhang tri ân những người đã nằm xuống và kể cho họ nghe đất nước hôm nay phát triển thế nào.

Bà Nguyễn Thị Đoàn: “Thời ấy, chị em chúng tôi hay ôm nhau cầu nguyện, dặn dò “Đứa nào còn sống hãy về thăm gia đình”. Khốc liệt, cái chết rình rập mọi lúc, mọi nơi nhưng chúng tôi luôn nói với nhau rằng: Nhất định ta phải thắng”.

Xem thêm