Như vậy, di sản, hay nói đúng hơn là di sản văn hóa đang trở thành chất xúc tác, “chất kết dính” cho hai thành phố trực thuộc Trung ương, khẳng định vai trò đầu tàu kinh tế của khúc ruột miền trung…
Kinh tế di sản biến di sản văn hóa vật thể và phi vật thể thành tài nguyên quý và tạo ra không gian phát triển kinh tế xã hội bền vững, đó là những điều dễ thấy ở hai vùng đất rất đậm đặc di sản văn hóa là Đà Nẵng và Cố đô Huế.
Gỡ “điểm nghẽn” để khai thác kho tàng di sản văn hóa
Cho đến trước khi Luật Di sản văn hóa được sửa đổi vào năm 2024, việc phân cấp quản lý di sản văn hóa là điểm nghẽn không thể tháo gỡ ở nhiều địa phương. Ai cũng biết để khai thác di sản văn hóa đều cần phải tu bổ, tôn tạo, trùng tu, duy tu, nâng cấp. Thí dụ như một ngôi chùa, muốn thu hút khách tham quan thì cần những công trình hỗ trợ như: Chỗ để xe, nhà hàng, căng-tin, khu vệ sinh… Và vì là những công trình liên quan đến di sản nên cần phải có giấy phép từ cơ quan quản lý và đơn vị chuyên môn tương đương với cơ quan quản lý. Luật Di sản văn hóa 2024 đã giải quyết được những vướng mắc chủ yếu này thông qua việc cải cách và đơn giản hóa thủ tục hành chính, phân cấp, phân quyền mạnh mẽ trong quản lý nhà nước về di sản văn hóa và tăng cường cơ chế, chính sách để xã hội hóa hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản.
Nhiều địa phương phát triển quan điểm Nghị quyết số 08 của Bộ Chính trị (ngày 16/1/2017) về phát triển du lịch bền vững gắn với bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa. Dẫn đến một hệ quả là các địa phương đã biết cách tự quảng bá thu hút khách du lịch. Từ năm 2019 đến nay, Việt Nam đã có 6 lần được Tổ chức Giải thưởng Du lịch Thế giới (WTA) vinh danh là điểm đến di sản hàng đầu thế giới. Cho thấy việc quảng bá di sản văn hóa Việt Nam đã đem lại hiệu quả và thật sự đã trở thành điểm nhấn hấp dẫn khách du lịch quốc tế. Năm 2024, thành phố Đà Nẵng đón 3,6 triệu lượt khách quốc tế, phần đáng kể trong số khách quốc tế này đã đến thăm Cố đô Huế. Việc đưa vào khai thác đoàn tàu “Kết nối di sản miền trung” là một trong những nỗ lực kết nối vùng, quảng bá du lịch của UBND 2 thành phố Đà Nẵng và Huế. Qua hơn 1 năm khai thác, đoàn tàu “Kết nối di sản miền Trung” trở thành sản phẩm rất hấp dẫn du khách, nhất là khách quốc tế. Trên tàu có toa cộng đồng trình diễn nhiều tiết mục văn hóa, văn nghệ dân gian truyền thống, bán và giới thiệu đặc sản địa phương; tàu dừng trên đỉnh đèo Hải Vân 10 phút để du khách tham quan vẻ đẹp của “đệ nhất hùng quan”.
Đà Nẵng là thành phố năng động nhất dải đất miền trung, địa phương đã khai thác hiệu quả giá trị di sản văn hóa tạo động lực phát triển kinh tế xã hội. Phường Hội An, thành phố Đà Nẵng thực hiện bắt buộc mua vé tham quan phố cổ đối với du khách thời gian đầu cũng gây ra “phản ứng” từ phía người dân, doanh nghiệp lữ hành, một bộ phận du khách. Địa phương vận dụng cơ chế đặc thù, quyết tâm thực hiện việc thu vé. Qua hơn 2 năm thực hiện, nguồn kinh phí thu được từ việc bán vé tham quan đã giúp địa phương làm mới nhiều dịch vụ, tăng trải nghiệm làm hài lòng du khách, đồng thời có nguồn kinh phí ổn định để trùng tu, tu bổ, quảng bá di sản văn hóa trên địa bàn. Phố cổ Hội An hiện là một trong những điểm đến hàng đầu châu Á theo các trang mạng quốc tế về du lịch. Thành phố Đà Nẵng cũng khai thác hiệu quả nhiều di sản văn hóa khác như: Thánh địa Mỹ Sơn, Di tích quốc gia đặc biệt Ngũ Hành Sơn, Làng nghề nước mắm Nam Ô, đình cổ Hải Châu… Tạo tiền đề và kinh phí để khai thác sâu hơn, hiệu quả hơn mảng văn hóa phi vật thể với hàng loạt nghệ thuật ca, vũ dân gian được phục dựng trong thời gian qua như nghệ thuật tuồng xứ Quảng, hát bài chòi, lễ hội cầu ngư…
Đẩy mạnh số hóa di sản văn hóa phục vụ phát triển kinh tế
Cách thành phố Đà Nẵng đúng 100 km về phía bắc, Cố đô Huế khẳng định vị thế là thành phố di sản văn hóa bậc nhất Việt Nam. Huế là địa phương tiêu biểu cách làm đặc thù khai thác di sản văn hóa, thí dụ Nghị quyết 38/2021/QH15 ngày 13/11/2021 của Quốc hội đã mang lại nhiều cơ chế, chính sách đặc thù cho tỉnh Thừa Thiên Huế trước đây. Đó là cho phép giữ lại toàn bộ phí thu tham quan di tích Huế để thực hiện việc đầu tư trùng tu di tích; Quỹ Bảo tồn di sản Huế là cơ chế đặc thù huy động các nguồn lực từ ngân sách qua sự hỗ trợ của các địa phương, từ các cá nhân, tổ chức… cho việc bảo tồn và phát huy giá trị di sản Huế. Ngoài ra, thành phố Huế cũng có nhiều nghị quyết tạo cơ chế, hành lang pháp lý hỗ trợ đầu tư bảo quản, tu bổ, phục hồi các di sản văn hóa. Tuy vậy, số hóa di sản văn hóa mới là cách làm phù hợp với địa phương có nhiều di sản văn hóa đặc thù như Huế.
Theo Giám đốc Trung tâm Bảo tồn di tích Cố đô Huế Hoàng Việt Trung, việc số hóa và khai thác dữ liệu không chỉ giúp bảo tồn tốt hơn các giá trị vật thể và phi vật thể, mà còn mở ra hướng phát triển mới cho kinh tế di sản và công nghiệp văn hóa sáng tạo. Dữ liệu di sản văn hóa có tính đặc thù cao như: Đặc thù về vật chất - tinh thần, đặc thù giá trị khoa học, lịch sử và nghệ thuật. Tại Huế, các dạng dữ liệu này bao gồm: Hệ thống kiến trúc cung đình, lăng tẩm, đền đài, chùa chiền; các hiện vật, cổ vật, tài liệu lưu trữ, bản vẽ, hình ảnh; di sản phi vật thể như Nhã nhạc cung đình, lễ hội, nghề thủ công truyền thống, tri thức dân gian; dữ liệu về cảnh quan, cây xanh, mặt nước; hồ sơ, công trình nghiên cứu khoa học; ấn phẩm sách, tài liệu.
Có thể nói, khai thác di sản văn hóa hiệu quả đã đem đến du lịch thành phố Đà Nẵng một nét quyến rũ riêng, trực tiếp góp phần tạo nên sức thu hút cho du lịch địa phương.
Tại Huế, công tác số hóa được tiến hành song song với việc xây dựng tiêu chuẩn dữ liệu, bảo đảm khả năng liên thông với các hệ thống quốc gia về văn hóa, du lịch và đô thị thông minh.
Thời gian qua, Trung tâm Bảo tồn di tích Cố đô Huế đã thực hiện chuẩn hóa dữ liệu di sản gồm: 1.400 bộ hồ sơ đã được chỉnh lý, 110 nghìn trang tài liệu đã được số hóa... Bên cạnh đó, các công trình di tích lịch sử quan trọng đã được số hóa, làm cơ sở dữ liệu để tăng tính trải nghiệm, tạo không gian cho người xem thưởng lãm, hay số hóa 3D các điểm di tích cho khách tham quan, du khách trong và ngoài nước tương tác như Điện Thái Hòa, Hổ Quyền, Ngọ Môn…
Từ kho dữ liệu số, thành phố Huế đã bước đầu hình thành các sản phẩm sáng tạo văn hóa: Triển lãm tương tác, triển lãm số, trạm tương tác du lịch thông minh, chứng nhận số. Lấy cảm hứng từ bộ tứ bảo vật của Cố đô Huế, Trung tâm Bảo tồn di tích Cố đô Huế thực hiện dự án đồ chơi sưu tầm hộp mù (blindbox arttoy), bán được 9.000 sản phẩm trong 6 tháng; triển khai dự án TapQuest tại Hải Vân Quan, cho phép du khách có thể tương tác thông qua các điểm trạm tương tác thông minh… Những sản phẩm này giúp chuyển đổi từ “bảo tồn tĩnh” sang “triển lãm động”, biến dữ liệu di sản thành nguồn lực kinh tế mới, góp phần lan tỏa giá trị Huế ra toàn cầu. Đây chính là một phần trong dự án khai thác dữ liệu hướng tới công nghiệp văn hóa và du lịch thông minh của Trung tâm Bảo tồn di tích Cố đô Huế.