Phóng viên (PV): Tới thời điểm này, ông đã được định vị là một nhà sưu tầm nghệ thuật có thẩm quyền. Việc gì cũng có sự khởi đầu, ông đã đến với tác phẩm đầu tiên như thế nào?
Nhà sưu tầm Hoàng Anh Tuấn: Có tài chính từ sớm, một thời gian sau khi tốt nghiệp đại học, tôi có chút may mắn là không quan tâm quá nhiều tới các nhu cầu khác, đúng hơn là chỉ sống vừa vặn với mình, nên tương đối thư giãn với tài chính dành cho nghệ thuật. Sưu tầm nghệ thuật với tôi là một sở thích kéo dài... Việc bắt đầu câu chuyện sưu tầm, nó cũng “tầm thường” như “lấp đầy” khoảng trống trên bức tường trong ngôi nhà đầu tiên mà tôi sở hữu và là bước đi đầu tiên trong việc mở rộng mối quan tâm tới nghệ thuật. Có lẽ, tác phẩm đầu tiên mà tôi coi như sưu tầm nghiêm túc sau một thời gian chơi tranh là một bức chất liệu bột mầu trên giấy của họa sĩ Đặng Xuân Hòa, một thành viên của nhóm 5 người “Gang of five” khổ 80x105cm, sáng tác năm 1994. Với tôi, đó là một bức tranh tuyệt vời - bức tranh “Girl with Vase” và nó đã hơn 30 tuổi.
PV: Theo ông, tranh, tượng nói riêng, tác phẩm mỹ thuật Việt Nam nói chung hiện nay đã có thể trở thành thành một sản phẩm để đầu tư, thậm chí đầu cơ chưa?
Nhà sưu tầm Hoàng Anh Tuấn: Một câu hỏi thú vị. Vì giá trị tác phẩm thay đổi và câu chuyện truyền cảm hứng của những kỷ lục xác lập trong đấu giá, khiến không ít người sưu tầm muốn tham gia như một kênh đầu tư. Giá trị cao tương đối của tác phẩm cũng là một sự hấp dẫn khác như một cách “khoe”, một kiểu sao kê tài khoản đính kèm trên bộ sofa phòng khách… Khác với hàng hóa tiêu chuẩn, thị trường nghệ thuật là thị trường đóng (closed market), rào cản gia nhập cao, thanh khoản thấp, phí giao dịch, thời gian giao dịch dài và sản phẩm là duy nhất với cấu trúc phi tiêu chuẩn. Do đó, mô hình vận hành của thị trường nghệ thuật không theo quy luật cung - cầu thuần túy.
Để có thể tham gia như nhà đầu tư hoặc đầu cơ nghệ thuật hiệu quả, người đầu tư cần năng lực kép: Chuyên gia nghệ thuật (connoisseurship), có khả năng đọc được giá trị thẩm mỹ, phát hiện thật/giả và kỹ năng kinh doanh như điều nghiên thương vụ và đánh giá rủi ro như trong kinh doanh (due diligence, risk management, exit planning)…
Nghệ thuật Việt Nam đã có “lớp” có thể đầu tư, nhưng phần lớn vẫn là tài sản kém thanh khoản, rủi ro cao nếu hành xử như hàng hóa tiêu chuẩn. Cần chọn đúng phân khúc, “lớp” đúng (năng lực connoisseurship) và làm điều nghiên (due diligence) cực kỳ nghiêm ngặt về xuất xứ (hồ sơ và lịch sử giao dịch), cũng như quản trị rủi ro tài chính, hiểu rõ về kế hoạch thoát hiểm (exit plan). Cũng như tránh tuyệt đối đòn bẩy tài chính như trong thị trường bất động sản hay chứng khoán, vì tính thanh khoản (có nghĩa là khả năng chuyển đổi bức tranh thành tiền) nó khó khăn đến mức độ gần như không tại Việt Nam hiện tại nếu đầu tư ngắn hạn (đầu cơ). Bởi lẽ ta đang ở trong một thị trường nghệ thuật sơ khai, thiếu các thành phần hỗ trợ để có thể trở thành một thị trường nghệ thuật thứ cấp trưởng thành…

PV: Có tác phẩm nào ông mua lợi về, đã mang lại lợi nhuận lớn cho ông không?
Nhà sưu tầm Hoàng Anh Tuấn: Lợi nhuận theo nghĩa được “chơi” thì nhiều, nhưng thuần về mặt lượng theo nghĩa đen như dealer (người buôn bán) thì không, bởi vì tôi chưa có nhu cầu bán những sản phẩm trong bộ sưu tập của mình. Song nếu tính về chi phí cơ hội thì cũng có những tác phẩm nếu mình không mua từ những năm 1990 thì bây giờ cũng khó mua được nữa, thí dụ: “Cô gái bên hồ” của họa sĩ Dương Bích Liên, hay “Phố Nguyễn Hữu Huân” của họa sĩ Bùi Xuân Phái. Đấy là những tác phẩm nổi tiếng có tuổi đời cả nửa thế kỷ. Hoặc bức tranh “Ngày vàng”, một bức tranh có kích thước lớn 160x300cm, được tác giả vẽ trong 2 năm 1999-2001, được chọn làm trang bìa sách nghệ thuật quan trọng của giai đoạn mở cửa của hội họa Việt, cuốn sách “Hội họa Việt Nam thập kỷ 1990” là một trong những bức tranh khởi đầu cho thời kỳ Đặng Xuân Hòa tranh khổ lớn.
PV: Theo ông tại sao hiện tại: thế giới phẳng hơn, giao lưu quốc tế mở rộng hơn, thông tin cũng cập nhật hơn…, mà hội họa Việt Nam không còn gây sốt với các nhà sưu tầm nước ngoài như giai đoạn đầu của thời kỳ mở cửa?
Nhà sưu tầm Hoàng Anh Tuấn: Nói ngắn gọn, đã có một “cây cầu bị đốt”, cây cầu kết nối hội họa Việt với giới sưu tầm bên ngoài Việt Nam. “Cơn sốt” tranh Việt những năm đầu Đổi mới, đã không thể bù đắp cho sự thiếu vắng hiểu biết về cách thị trường nghệ thuật vận hành. Rằng họa sĩ với tác phẩm chỉ là một thành tố trong cấu trúc hệ sinh thái bao gồm gallery chuyên nghiệp, nhà phê bình, nhà đấu giá và báo chí truyền thông… Khi họa sĩ qua mặt đại diện của mình hoặc nhân bản tác phẩm bán chạy, các gallery nội địa mở ra với sự đơn giản coi tranh như là một mặt hàng lưu niệm, tất nhiên sẽ là sự hỗn độn giữa tác phẩm chất lượng với hạng tranh souvenir cùng chung một giỏ. Hệ quả là các gallery chuyên nghiệp đã đưa hội họa Việt Nam ra thế giới như Blum Blossom và Gallery Lã Vọng ở Hồng Kông (Trung Quốc), và cả các nhà đấu giá Sotheby’s và Christine’s đã không thể tiếp tục giới thiệu hội họa Việt Nam được nữa. Sự thất bại của cả hai nhà tiên phong Blum Blossom và Gallery Lã Vọng với hội họa Việt là khởi đầu. Đến khi các tờ báo The Wall Street Journal, The New York Times lên bài phân tích về thực trạng thị trường nghệ thuật Việt Nam thì tất cả đã chấm dứt.
Thứ hai, có một nghịch lý riêng có ở thị trường nghệ thuật Việt Nam hiện tại. Trong khi dung lượng thị trường đã phình to đáng kể với dòng tiền đổ vào, tầng lớp người chơi tranh và nhà sưu tầm mới phát triển nhanh, đáng lý các nhà đấu giá quốc tế (đang hoạt động tích cực với mảng tranh Việt) nên bắt đầu với các tác giả đương đại để có thể hỗ trợ thật sự có hiệu quả cho nền nghệ thuật Việt Nam và họ cũng hái được quả ngọt bền vững… Đáng tiếc, họ đã sử dụng nguồn lực và kỹ năng của một định chế ở thị trường trưởng thành để “gặt hái” ở những tác giả đã mất, những họa sĩ thời kỳ Mỹ thuật Đông Dương mà xuất xứ (lịch sử sở hữu, xuất xứ tác phẩm) còn nhiều thiếu sót nhằm tận dụng, khai thác trào lưu mới của các nhà sưu tầm mới. Hệ quả hiện giờ chưa rõ ràng, song họ không giúp ích gì cho việc “hàn cây cầu bị đốt” trong những thập niên trước.
Thứ ba, nếu xem tranh như một loại tài sản thì điều đáng buồn là chúng ta đang thiếu vắng hạ tầng để loại tài sản này có thể mang trong mình các thuộc tính căn bản nhất để người sưu tầm có thể an tâm. Thí dụ đơn giản là tính thanh khoản, tác phẩm nghệ thuật không thể chuyển đổi thành tiền hay dùng như tài sản bảo đảm cho khoản vay ngân hàng khi cần thiết. Với giá trị của những tác giả hàng đầu tới vài chục nghìn, vài trăm nghìn đến triệu đô-la Mỹ, cuộc chơi không còn như trước đây, nó đã là tài sản có giá trị, cần đo lường rủi ro. Và điều này tăng chi phí gia nhập thị trường, tạo thêm rào cản cho giới sưu tầm quốc tế quay trở lại với hội họa Việt.
PV: Được biết nhiều doanh nhân Việt Nam đang sở hữu những bộ sưu tập nghệ thuật rất quý. Nhưng hiện tại, những tác phẩm giá trị đó vẫn chỉ được lưu giữ trong không gian riêng. Theo ông, điều này có là thiệt hại cho cả công chúng nghệ thuật lẫn tác phẩm nghệ thuật đó?
Nhà sưu tầm Hoàng Anh Tuấn: “Lịch sử thẩm mỹ” không chỉ là lịch sử của các tác phẩm mà là lịch sử của cái nhìn, cách cảm… Quyền kể lại không chỉ nằm ở người sáng tạo mà ở người giữ và diễn giải. Nghệ sĩ có thể là người sáng tạo nhưng người sưu tầm chính là người kiến tạo ký ức… Một bức tranh của Dương Bích Liên, Bùi Xuân Phái, Đặng Xuân Hòa, hay Thành Chương khi nằm trong bộ sưu tập kín, nó không còn là ký ức tập thể mà chỉ là ký ức cá nhân hay ký ức “tài chính”. Tác phẩm ấy mất “đời sống thứ hai” đời sống mà John Berger gọi là “được nhìn thấy” (being seen), đời sống chỉ bắt đầu khi có ánh nhìn của người khác.
Về phía công chúng, không chỉ mất cơ hội tôn vinh cái đẹp, họ mất luôn quyền “can dự” được hình thành chuẩn mực thẩm mỹ của thời đại… Tôi hy vọng rằng một lúc nào đó, sự chia sẻ ra ngoài sẽ là một nhu cầu. Những bộ sưu tập lớn xu thế sẽ hình thành bảo tàng hay không gian trưng bày cho công chúng. Và hạ tầng pháp lý cũng nên có hành lang khuyến khích họ.
PV: Trân trọng cảm ơn nhà sưu tầm Hoàng Anh Tuấn!