Khi đó, ông Đỗ Xuân Oanh là người đọc bản dịch Tuyên ngôn Độc lập bằng tiếng Anh đầu tiên trên sóng VOV.
Giai điệu vang lên cùng quốc dân đồng bào
Ông Đỗ Xuân Oanh (1923 - 2010) là nhà báo cách mạng thời kỳ đầu của báo Cứu Quốc, Thông tấn xã Việt Nam, là một trong số ít phát thanh viên tiếng Anh của VOV. Dù vậy, ông được biết đến hơn cả với vai trò là nhạc sĩ, tác giả ca khúc “Mười chín Tháng Tám” đã đi vào lịch sử. Ông nhận mình “là người hết sức may mắn được lịch sử chọn ghi lại bằng âm nhạc cái không khí cách mạng long trời lở đất của nhân dân Việt Nam trong ngày tổng khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân”.
Ông Xuân Oanh từ nhỏ đã có năng khiếu ngoại ngữ, từ học tiếng Pháp ở trường tiểu học, đến tự học tiếng Anh qua đài mà ông có thể dịch ngược từ tiếng Việt ra tiếng Anh, Pháp. Ông còn sử dụng được tiếng Nga, Trung, Đức, Tây Ban Nha và từng đọc diễn văn bằng tiếng Nhật trong một hội nghị diễn ra tại Nhật Bản vào năm 1976. Ông còn là dịch giả với bút danh Anh Thư - tên người cháu nội gần gũi với ông. Xuân Oanh đã dịch hàng chục cuốn tiểu thuyết của các nhà văn nổi tiếng như Mark Twain, Jefferey Archer, Bruno Apitz…
Ông bà Xuân Oanh và Lê Thị Xuân Uyên có ba người con trai. Trong số các cháu, Đỗ Anh Thư là người cháu gần gũi với ông nội và sinh thời ông rất yêu quý, có nhiều thời gian chỉ dạy và động viên cháu mình. Anh Thư cho biết, ông bà cũng là người có ảnh hưởng lớn nhất đến cuộc sống, quá trình học tập và phát triển của con, cháu. “Đối với tôi, cuộc đời, sự nghiệp và tấm gương của ông nội đã để lại tầm ảnh hưởng lớn lao cũng như với cả gia đình. Ký ức của tôi hồi bé chủ yếu là về ông nội, lúc ông cười, cáu giận ra sao, ký ức khi ông ngồi trong góc nhà sau ngày bà nội mất…”. Những câu chuyện dưới đây được ghi lại dựa theo lời kể của Anh Thư về người ông, nhạc sĩ, dịch giả, nhà văn hóa Xuân Oanh - người đã sống đời rực rỡ như chính ca khúc của ông.
“Ánh sáng tự do đưa tới. Cờ bay muôn nơi tung ánh sao vàng”, khúc hoan ca do ông sáng tác đã ra đời và lan tỏa ngay trên đường phố Thủ đô Hà Nội trong tinh thần sục sôi mùa thu cách mạng năm 1945. Ở thời điểm ca khúc ra đời, vào những ngày tháng 8 lịch sử năm 1945, không khí chuẩn bị khởi nghĩa đang náo nức khắp Hà Nội. Nhạc sĩ Xuân Oanh, khi ấy ngoài 20 tuổi, đang cùng dòng người đông đảo đổ về quảng trường trước Nhà hát Lớn. Trước đó, ông từng là công nhân vùng mỏ, rồi ra phố cảng Hải Phòng và gia nhập giới nghệ sĩ trẻ tại đây. Những dịp đàn hát trong các hàng quán, ông gặp gỡ nhạc sĩ Nguyễn Đình Thi, Văn Cao và nhiều chiến sĩ cách mạng, từ đó Xuân Oanh bắt đầu biết đến và ủng hộ Việt Minh, gia nhập đội tuyên truyền kháng chiến.
Ngay từ khi đã tham gia hoạt động tuyên truyền bí mật cho Mặt trận Việt Minh chuẩn bị cho tổng khởi nghĩa ở khu vực phía nam Hà Nội, ông Xuân Oanh đã nung nấu mong muốn sáng tác bài hát về sự kiện vô cùng to lớn này. Suốt ngày hôm trước, ông bận rộn chuẩn bị các hoạt động cho cuộc biểu tình, tuần hành. Sáng 19/8, ông đi đầu một đoàn tuần hành xuất phát từ ga Giáp Bát. Theo bước chân sục sôi, ông cảm nhận được sự đồng lòng của những người lao động đã chịu quá nhiều đau khổ, đồng lòng “đứng đều lên góp sức một ngày”.
Đó cũng chính là câu chuyện của bản thân ông, từ năm 14 tuổi đã bắt đầu tự lăn lộn kiếm sống, từ làm công nhân nhà máy kẽm ở Quảng Yên, hầm mỏ than ở Hòn Gai, rồi sang cảng Hải Phòng. Năm 19 tuổi, ông đi Hà Nội tham gia hoạt động bí mật trong phong trào Việt Minh. Sự đồng cảm mà sau này khi viết lại quá trình hoạt động cách mạng, ông có ghi: “Xuất thân từ một gia đình nghèo, cha mẹ sống bằng sức lao động của bản thân, tuy nghèo vẫn cố gắng lo cho con đi học để mong “thành đạt” theo ý nghĩ và tư tưởng phong kiến. Nhưng thực tế xã hội trước cách mạng không cho phép. Tôi lớn lên, bỏ học, lăn vào xã hội, sống với quần chúng lao động và dần dần có ý thức cách mạng”.
Chính từ dòng cảm xúc dâng trào đó, giai điệu đã vang lên trong đầu ông trong lúc vừa đi biểu tình, được câu nào ông hát vang và bắt nhịp cho đám đông hát theo từng câu. Đến chợ Mơ thì bài hát trọn vẹn, Xuân Oanh lại bắt nhịp cho mọi người hát từ đầu. Cứ thế đoàn này phổ biến cho đoàn khác, nhánh này lan sang hướng khác, “Mười chín Tháng Tám” đã lan truyền một cách mạnh mẽ và nhanh chóng, trở thành biểu tượng tinh thần của ngày khởi nghĩa.

Tình thư giấu trong ruột bánh mì
Trong dòng người hòa ca đổ về quảng trường ngày Tháng Tám lịch sử còn có một cô nữ sinh Đồng Khánh, bà Lê Thị Xuân Uyên, năm đó 18 tuổi. Bà sinh ra trong một gia đình Hà thành gia thế, nhà ở phố Rue Harmand (phố Trần Xuân Soạn bây giờ), cha là bác sĩ Lê Trực, ông nội là cụ phán Trừng (tương đương Thẩm phán tòa án). Khi đó, bà cùng em trai tham gia mít-tinh ở Nhà hát Lớn và sau này trong tiểu sử của mình, bà ghi ngày tham gia cách mạng chính là ngày 19/8.
Sau hôm tổng khởi nghĩa mấy ngày, bà đi qua cổng rạp Đại Nam là trụ sở bí mật của cách mạng. Tại đây, Xuân Uyên làm quen với chàng trai Xuân Oanh đang đứng gác bên ngoài. Sau này họ kể lại với con cháu, đó là khoảnh khắc cả hai người đã phải lòng nhau dù bà Xuân Uyên còn chưa biết chàng trai đó chính là người đã viết bài ca “Mười chín Tháng Tám”, còn ông cảm mến cô gái Hà thành vì lòng gan dạ, can trường, không ngại khó ngại khổ.
Tâm ý trao nhau giữa mùa thu sục sôi cách mạng, nhưng còn chưa kịp ngỏ lời thì toàn quốc kháng chiến, ông Xuân Oanh theo báo Cứu Quốc lên chiến khu Việt Bắc, họ mất liên lạc với nhau. Bà Xuân Uyên đi theo Đội Nữ sinh Hoàng Diệu, sau chuyển sang Đội Y tế Vệ quốc đoàn của bác sĩ Tôn Thất Tùng.
Hà Nội đông xuân năm 1946 - 1947 là những ngày chiến đấu anh dũng, ác liệt của quân và dân Thủ đô. Năm 1946, khi Pháp tấn công vào Hà Nội, bà Xuân Uyên được giao làm Đội trưởng của Đội Điệp báo nữ Công an Hà Nội, hoạt động ngầm nắm tình hình địch trong nội thành, lấy biệt danh Lê Minh Thái. Một lần, đang đi công tác với đồng đội khi hoạt động tình báo nội tuyến, bà bị giặc bắt, giam giữ, đó là vào mùa đông năm 1947. Đứng trước những đòn tra tấn dã man của cai ngục nhà tù Hỏa Lò, Xuân Uyên vẫn không hé răng nửa lời. Gia đình bà đã dốc mọi cách, tìm đủ đường cho đến khi ông Lê Trực lo được cho ra giam lỏng rồi nhờ đó, thoát khỏi nhà tù Hỏa Lò và ít lâu sau Công an Hà Nội bí mật đưa bà Xuân Uyên lên chiến khu.
Một năm ở nhà tù Hỏa Lò là một năm chịu tra tấn dã man, nhưng không khuất phục được ý chí kiên định sắt son với cách mạng của người con gái Hà thành. Về sau, hồi tưởng lại quãng thời gian kinh hoàng đó, bà Xuân Uyên kể cho con cháu về một khúc tình thư giấu trong ruột bánh mì, được bí mật chuyển vào nhà lao gửi cho bà. Khúc tình thư thật ra là bài hát động viên bà Xuân Uyên giữ vững chí khí. Người viết không ai khác chính là nhạc sĩ Xuân Oanh.
Ca khúc trong thư đã không còn giữ lại được nữa, nhưng tâm ý thì lưu lại mãi và là xúc tác cho tình yêu của ông bà sau này. Tháng 5/1951, họ làm đám cưới tại chiến khu, đại diện nhà trai là ông Trịnh Liệt (bí danh Lưu Động), phụ trách báo Cứu Quốc; họ nhà gái là ông Lê Giản, Giám đốc Nha Công an Trung ương. Chủ hôn là ông Lê Quang Đạo, khẩu hiệu của đám cưới là “Tổ quốc trên hết” và “Vui duyên mới không quên nhiệm vụ”. Quà cưới to nhất là một rổ trứng luộc, cuối lễ, mọi người cùng liên hoan. Trong đám cưới, ông Xuân Oanh hứng khởi nhảy lên bàn đàn hát một liên khúc bài ngẫu hứng. Ngày hôm sau, địa điểm tổ chức đám cưới bị máy bay Pháp ném bom san phẳng.
Tình cảm của ông bà luôn âm thầm nhưng bền bỉ như vậy suốt bao năm. Xuân Oanh sáng tác, phổ nhạc nhiều bài thơ trữ tình dành tặng bà Xuân Uyên. Ba bản tình ca đặc sắc của ông viết “Gọi thu”, “Em ra đi” (thơ Nguyễn Thị Hồng) và “Hương nhài” (thơ Lê Kim Giao) đều là những giai điệu ông viết riêng cho bà. Có bài “Hương nhài” vì đây là loài hoa bà Xuân Uyên thích nhất. Nét giai điệu này xuyên suốt cuộc tình của ông bà, từ rừng Việt Bắc cho tới Paris, khi đi công tác ông viết bài hát “Tháng sáu, Uyên ơi...” tại Paris (6/1969) tặng bà. Khi viết báo, do bà Xuân Uyên có bí danh là “Thái Duyên” nên ông Oanh đã ký bút danh “Thái Lưu” theo bí danh của bà.