Từ phải qua: Kíp chiến đấu Tiểu đoàn 52 tham gia bắn rơi 32 máy bay Mỹ gồm sĩ quan điều khiển Nguyễn Văn Thọ, trắc thủ cự ly Hoàng Văn Nam, trắc thủ góc tà Vương Thái Thanh, trắc thủ phương vị Trần Hay. Ảnh: NVCC
Từ phải qua: Kíp chiến đấu Tiểu đoàn 52 tham gia bắn rơi 32 máy bay Mỹ gồm sĩ quan điều khiển Nguyễn Văn Thọ, trắc thủ cự ly Hoàng Văn Nam, trắc thủ góc tà Vương Thái Thanh, trắc thủ phương vị Trần Hay. Ảnh: NVCC

Dáng bay Việt Nam (kỳ 4)

Kỳ 4: Cái màu đỏ ấy theo đi

60 năm từ ngày quả tên lửa SAM hạ gục một chiếc máy bay Mỹ.

60 năm, từ lúc những người lính đứng sau quan sát các chuyên gia Liên Xô, tới lúc Thần sấm, Con ma, những pháo đài bay tưởng chừng bất khả xâm phạm, lần lượt mất tín hiệu trên màn hình quan sát.

Từ một lực lượng mà nghe tên, người Mỹ còn cười chế nhạo, tới lực lượng mà các báo cáo của CIA đều dành một sự nể trọng.

Đó là chặng đường dài của những khoảnh khắc vút bay giữa bão tố và lửa khói.

Những trái tim lửa trên trận địa

Bên cạnh những quyết sách hợp lý, táo bạo từ Bộ Chính trị, Bộ Quốc phòng tới quân chủng, sự giúp đỡ nhiệt tình của những người bạn Liên Xô trước kia, chính những người lính đã cùng nhau góp sức tạo nên kỳ tích lửa trên bầu trời những năm tháng chống Mỹ.

Ngày 6/11/1967, Trung tướng M.I. Vorobyov, Cục trưởng Cục 1 Vũ khí Tên lửa Phòng không thuộc Tổng Cục 4 Bộ Quốc phòng Liên Xô, đã đến Việt Nam. Trung tướng Liên Xô nhận định: “Các sĩ quan và hạ sĩ quan Việt Nam rất chăm chỉ, họ thành thạo như những cỗ máy, trong việc thao tác, họ có thể, bằng trí nhớ, kể ra và chỉ ra bất kỳ điều mục nào, thuộc hết các thông số của mọi tín hiệu” (1).

Ngay cả người Mỹ cũng có sự ngạc nhiên trước tinh thần linh hoạt của người Việt trong cuộc chiến, nhất là khả năng “tận dụng các khoảng ngừng ném bom để tái xây dựng sức mạnh quân sự và cải thiện hệ thống phòng không hợp nhất của mình” (2).

Năm 1966, các báo cáo phía Mỹ cho thấy, phi đội “Chồn hoang” vẫn “không đủ nhanh để bắt kịp tốc độ mở rộng trận địa SAM của bắc Việt”. Đến tháng 8/1966, có hơn 100 trận địa SAM hoạt động, không chỉ quanh Hà Nội mà còn lan xuống tận Vinh (Nghệ An) (3).

Tới tháng 12/1967, máy bay trinh sát tầm cao trong nhiệm vụ Black Shield đã chụp ảnh 221 trong số 226 địa điểm SA-2 có thể sử dụng được của bắc Việt Nam, bao gồm sáu địa điểm mới (4).

Giữa năm 1967, tỷ lệ máy bay Mỹ bị bắn rơi vào khoảng 2% tổng các lượt bay, cao hơn nhiều so tỷ lệ tổn thất 1% trong Thế chiến II. Báo cáo của CIA khẳng định tên lửa SAM đã bắn rơi tới gần 400 máy bay Mỹ trong khoảng từ năm 1965 đến giữa năm 1967 (5).

Để tránh tên lửa của ta, các phi công Mỹ buộc phải hạ thấp độ cao. Lúc đó, họ lại trở thành mồi ngon của hệ thống pháo phòng không và súng máy. B52 không thể hoạt động tự do như năm 1965 vì bị phòng không và MiG đánh trả mạnh mẽ (6).

Trước khi bước vào chiến dịch phòng không tháng 12/1972, quân dân Hà Nội đã xây dựng trên 30 trận địa cho tên lửa, trên 100 trận địa cho cao xạ các loại, và nhiều vị trí triển khai chiến đấu khác không có địa danh trên bản đồ.

Dư âm của tháng 12/1972 sau này ám ảnh tới mức, tướng George J. Eade, Tổng Tư lệnh châu Âu của Mỹ từ năm 1973 đến năm 1975, trong bài phỏng vấn trên Tạp chí Không lực Hoa Kỳ tháng 6/1973 đã thừa nhận: “Việc cho rằng bắc Việt là một quốc gia hạng hai về năng lực phòng không, theo chúng tôi, là hoàn toàn vô căn cứ. Chúng tôi cho rằng bắc Việt đã phát triển lực lượng phòng không có kinh nghiệm thực chiến cao nhất thế giới. Rõ ràng, họ có nhiều kinh nghiệm trong việc khai hỏa tên lửa SAM vào máy bay hơn bất kỳ ai”.

Vào tháng 5/1972, Đại tướng Võ Nguyên Giáp chỉ thị cho quân chủng Phòng không-Không quân phải tính toán cho ông ba con số. Đó là tỷ lệ B52 bị bắn rơi bao nhiêu thì Mỹ chịu đựng được và tiếp tục cuộc ném bom, tàn phá tan hoang Hà Nội; Tỷ lệ B52 bị bắn rơi bao nhiêu thì Nhà Trắng rung chuyển; Tỷ lệ B52 bị bắn rơi bao nhiêu thì Mỹ phải bỏ cuộc. Cơ quan quân chủng đã đưa ra ba đáp án: N1=1 đến 2%; N2=6 đến 7%; N3=10% trở lên.

Khi Tư lệnh Lê Văn Tri mang lên báo cáo, Đại tướng hỏi: “Vậy quân chủng nhận con số nào?”. Ông Lê Văn Tri thưa: “Báo cáo anh, bằng mọi giá chúng tôi phải loại trừ N1, quyết tâm phấn đấu đạt N2, và vươn tới N3” (7).

Trong Hội nghị tập huấn cuối tháng 10/1972 tại Sư đoàn 361, Tư lệnh Lê Văn Tri giao nhiệm vụ cho bộ đội tên lửa ít nhất phải bắn rơi tại chỗ một chiếc ở Hà Nội. “Đó là kế hoạch tác chiến thực hiện bằng được”, AHLLVTND Nguyễn Đình Kiên trầm ngâm.

Và thực tế đã chứng minh, kết quả bắn rơi B52 đã vượt xa các chỉ tiêu đề ra.

Người Mỹ chưa bao giờ thừa nhận các con số đầy đủ đó. Nhưng họ không thể phủ quyết một sự thật, họ đã vấp phải sự kháng cự chưa từng có. Trong hồi ký của mình, Tổng thống Nixon, đã phải lo sợ vì “mức độ tổn thất B52 quá nặng nề” (8).

Màu đỏ trên chớp lửa

Những chiến thắng trên bầu trời đã phải đánh đổi bằng tất cả mồ hôi, máu và nước mắt của những người lính. AHLLVTND Hoàng Văn Nam, nguyên sĩ quan điều khiển tên lửa Tiểu đoàn 52, Trung đoàn 267 nói rằng, một trong những trận ám ảnh nhất của ông là vào ngày 7/7/1967 tại trận địa Minh Kha, Hải Phòng. Đơn vị của ông vừa đồng bộ đạn thì “nó bắn 32 rocket, ba người hy sinh”. Đơn vị phải chuyển đến Đồng Gia (huyện Kim Thành, Hải Dương cũ) bố trí trận địa mới. Vào ngày 18/9/1967, tiểu đoàn của ông Nam đã bắn rơi một máy bay A4 của địch. Chiến công đó, với ông Nam còn là lời nhắn gửi tới những người đồng đội đã mãi mãi gửi mình nơi tuyến lửa ngày 7/7: “Mình vẫn tiếp tục chiến đấu chứ, không thể dao động được”.

Trong Chiến dịch Phòng không tháng 12/1972, bộ đội tên lửa ở trong tình trạng vô cùng khan hiếm đạn. Những quả đạn trên bệ phóng chỉ dành để đánh những chiếc B52 ban đêm.

Ba ngày bắn hạ ba chiếc B52, trận địa Chèm của Tiểu đoàn 77 trở thành cái gai nhọn trong mắt đối phương. Ngày 21/12, địch dùng F4 tấn công trận địa, trắc thủ Nghiêm Xuân Danh hy sinh. Sáng 28/12, máy bay F4 lại tiếp tục tấn công Chèm.

Một tiếng sau, hai tốp tám chiếc F4 bay thẳng hướng trận địa Đại Đồng của Tiểu đoàn 57. “Nhìn thấy kẻ thù đang trực tiếp tấn công trận địa nhưng không được đánh”, ông Nguyễn Đình Kiên kể lại. Ông Nguyễn Văn Phiệt còn nhớ, khi máy bay địch rút, lúc mở cửa, bốn chung quanh trận địa của Tiểu đoàn 57 bị bom cày xới. “Quân mất nết ấy”, vị trung tướng nghẹn lại. Một trắc thủ góc tà trên xe điều khiển bị thương. Một đồng chí pháo thủ ngoài trận địa đã hy sinh.

Sau mỗi trận thắng, khi những người quan sát hò reo mừng rỡ, thì những người lính tên lửa vẫn chưa được rời vị trí chiến đấu. Ông Hoàng Văn Nam chia sẻ, sau khi bắn rơi B52 chia lửa cho Hà Nội vào đêm 18/12/1972 tại trận địa Nghĩa Đàn (Nghệ An), kíp chiến đấu “không có thời gian hò reo cái gì”. Họ phải ngay lập tức quay anten, hạ cao thế, bởi chỉ cần chậm một giây là có thể tạo thời gian cho Shrike tấn công.

Phía Hà Nội, ông Nguyễn Đình Kiên cũng kể rằng, cả trận chỉ nhìn tín hiệu máy bay qua màn hình, tới khi mở cửa đi ra ngoài, thấy phóng viên ảnh Văn Bang, phóng viên Báo Nhân Dân, ngoài trận địa lao lên hò hét: “Cháy rồi”, ông mới chắc chắn vào chiến công của mình.

AHLLVTND Nguyễn Đình Kiên bảo ngày ông nhập ngũ, chỉ nghĩ đánh giặc 1-2 năm rồi trở về học tiếp. Nào ngờ, ông đi một mạch. Kết thúc chiến dịch Điện Biên Phủ trên không với thành tích hạ gục 4 chiếc B52, ông Kiên mới được trở về ăn cái Tết đầu tiên trên quê nhà Vinh sau sáu năm quân ngũ.

Tiểu đoàn 57 khi bắn rơi chiếc B52 đầu tiên, được Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội Trần Duy Hưng thưởng cho một con bò. Nhưng những ngày trực chiến liên miên kéo họ đi. Mãi tới sau Tết năm 1973, những người lính thét ra lửa giữa bầu trời, mới thật sự ngồi lại với nhau có một bữa mổ bò khao quân đúng nghĩa.

Sau những ngày chiến đấu căng thẳng, cảm giác hòa bình đến thật sảng khoái.

AHLLVTND, Đại tá Đinh Thế Văn nói vẫn nhớ ngày gặp ông Lê Đức Thọ tại trận địa Chèm. Vị cố vấn mới trở về từ Hội nghị Paris đã đến gặp những người lính phòng không, từng nói: “Cảm ơn các đồng chí bộ đội tên lửa phòng không. Cảm ơn quân và dân Hà Nội, chính các đồng chí đã ký thắng lợi cho Việt Nam ở Hội nghị Paris”.

Nhiều năm sau khi rời quân ngũ, ông Nguyễn Đình Kiên mới bảo rằng: “Càng ngày càng thấy được cái ý nghĩa to lớn của chiến thắng B52. Mình tự hào vì cả thế giới bấy giờ chỉ có Việt Nam đã bắn rơi B52 thôi”. Để truyền lửa cho thế hệ mai sau, ông Đinh Thế Văn, người con của làng rối Đào Thục (Hà Nội), đã viết một kịch bản múa rối nước kể về 12 ngày đêm của trận “Điện Biên Phủ trên không” bởi ông tin rằng, “chỉ có văn hóa mới truyền cảm hứng cho quần chúng dễ hiểu nhất, dễ nghe nhất mà lại vui nhất”.

“Cần để cho thế hệ sau biết, Việt Nam mình đã làm được kỳ tích như thế”, ông Văn cười.

*

Thay lời kết:

Trong loạt bài này, chúng tôi không thể kể lại đầy đủ về những chiến công, từng trận đánh của những AHLLVTND. Chúng tôi chỉ ghi lại một vài lát cắt trong câu chuyện của những người lính tuyến đầu. Đó không phải là tấm huy chương của riêng một ai. Đó là sự đồng lòng của một tập thể kiên cường và bền bỉ.

Và đó là một màu đỏ rực rỡ của những chớp lửa trên bầu trời đất nước.

(1) Đảng bộ Quân chủng Phòng không - Không quân lãnh đạo chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ ở Miền Bắc Việt Nam giai đoạn 1965 - 1968 và năm 1972, LATS Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Nguyễn Trung Thông, 2023.

(2), (6) “LINEBACKER II, THE DECEMBER 1972 VIETNAM WAR AIR CAMPAIGN” của Ltc. Dennis R. Littrell, 1998.

(3) Take It Down! The Wild Weasels in Vietnam Tạp chí Không lực, John T. Correll, 2010.

(4) BLACK SHIELD - Reconnaissance Missions 16 August-31 December 1967, Giải mật 2016.

(5) VIETNAM 1967: A Synthesis of “The Vietnam Situation: An Analysis and Estimate” - 5/1967, Giải mật 2007.

(7) Giới thiệu về trận Điện Biên Phủ trên không (Tài liệu tổng hợp của Trung tá Lưu Trọng Lân, Phó Trưởng phòng Tác huấn, Bộ Tham mưu Quân chủng PK-KQ, 1999).

(8) RN: The Memoirs of Richard Nixon - Hồi ký, 1978.

Xem thêm