Hải sản tươi ngon tại chợ Gú. Ảnh: LƯƠNG HÀ
Hải sản tươi ngon tại chợ Gú. Ảnh: LƯƠNG HÀ

Người về chợ Gú

Chợ Gú nằm ngay bên đường Hổ Đội, xã Thái Thụy, tỉnh Hưng Yên, sát bờ tả của sông Diêm Điền. Từ xưa, chợ Gú vốn là cảng cá của tàu thuyền mỗi chiều về neo đậu. Chợ họp cả ngày. Buổi sáng, hàng hóa là các thứ thu hoạch được trong đồng, ngoài bãi.

1. Buổi chiều, chợ Gú bán đủ các sản vật của ngư dân đánh bắt trong lộng, ngoài khơi. Cá thu, tôm he, mực tươi… ở chợ này giá chỉ bằng già nửa giá cả của cùng một mặt hàng tại chợ của các tỉnh bạn. Và chắc chắn đồ biển ở đây tươi ngon hơn hẳn. Là vì, chợ Gú chỉ cách biển chừng vài trăm mét.

Ngoài các thứ hàng hóa thông thường như các ngôi chợ khác trong vùng, tiểu thương chợ Gú còn bán những sản vật gợi nhớ về quá khứ thẳm sâu của vùng đất này từ hơn 600 năm về trước. Đó là hành, tỏi và đặc biệt là rau húng láng. Số là, những năm đầu thế kỷ XV, sau khi công cuộc chống Hồ phục Trần của tướng Trần Khát Chân thất bại, tướng Phùng Thế Kỳ lãnh đạo đội quân Hổ Bôn triều Trần đã đưa Hổ Đội và gia đình từ vùng Noi Cáo (Láng) ngoại thành Thăng Long men theo sông nước về đây định cư. Ngày đó vùng này còn là rừng rậm hoang vu. Bây giờ, thần phả của 12 dòng họ lưu tại đình làng Hổ Đội trên đất Thụy Lương còn ghi rõ điều trên.

Ngoài việc làm ruộng, đánh bắt hải sản ven biển, người dân Hổ Đội ngày đó còn khẩn hoang đất đai phát triển thêm nghề làm muối. Vậy nên, vùng đất này từ lâu có tên chữ là làng Diêm Điền - Đồng Muối và cửa mở ra biển của con sông Diêm - sông Muối mới có tên là Diêm Hộ - cửa sông Diêm.

5-3.jpg
Chợ Gú là ngôi chợ lâu đời của huyện Thái Thụy.

2. Tính đến những ngày này, bà cụ Tầm (gọi theo tên người con trai cả) đã là tiểu thương chợ Gú có dễ đến gần hai phần ba thế kỷ. Từ tuổi lên mười, cô bé Tầm đã theo mẹ ra đây mua mua bán bán. Quầy hàng khô nhà cụ chỉ bán hành tỏi, húng láng và muối biển Thụy Lương. Dù đã qua tuổi 80, dáng hình cụ Tầm vẫn còn thanh thoát. Mắt sáng, môi trầu, tóc cước, hiện cụ vẫn rất tường minh. Cụ bảo, một ngày không ra chợ là thấy mình như mắc chứng tương tư. Cụ còn bảo, hành tươi, hành khô là của cha ông truyền lại và muối biển Thụy Lương dẫu không trắng như muối mọi nơi, cụ và những tiểu thương ngồi chợ hằng ngày, cũng là để còn góp phần gìn giữ những sản vật cha ông truyền lại. Người đồng muối Diêm Điền từng khẳng định rằng, cũng chỉ có muối biển Thụy Lương mới có thể làm cho nước mắm Diêm Điền giữ mãi được phẩm cách truyền đời.

Hiện nay, ngoài xí nghiệp nước mắm của HTX mỗi năm cho ra cả ngàn lít nước mắm mang nhãn hiệu nước mắm Diêm Điền có dư vị rất riêng, nhiều gia đình vẫn tự làm mắm cho nhu cầu tại gia. Mà đã làm mắm thì không thể không dùng muối biển Thụy Lương. Vậy nên, nghề muối vẫn có cơ tồn tại. Bỗng nhớ, có lần đã đọc được ở đâu đó, rằng, muối biển Thụy Lương sản xuất hoàn toàn thủ công, có mầu hồng nhạt của phù sa có trong nước mặn nên giữ nguyên được các vi chất quý hiếm, rất có lợi cho sức khỏe, phòng ngừa được căn bệnh bướu cổ và các chứng thiếu vi chất khác. Cái thời công nghiệp 4.0 này, các món ăn siêu chế biến tại các siêu thị rất dễ làm cho con người lâm vào cảnh thiếu những chất bổ vốn chỉ có trong thức ăn dân dã. Tiếc rằng, cho đến hôm nay, diện tích ô nề (ruộng muối) làng muối Thụy Lương đang ngày càng thu hẹp. Đất đai dành cho công việc khác, trong đó có việc trao đi đổi lại sẽ đem lại lợi nhuận nhiều hơn. Trong làng, cũng chỉ còn dăm bảy gia đình theo nghề làm muối. Đó là những lao động, nửa quý nghề gia truyền, nửa quẫn bách vì không còn tuổi, không còn đủ sức khỏe để có thể xa nhà cả ngày đi làm ở các công ty có thu nhập hằng tháng cao hơn.

Câu chuyện dông dài sắp dừng thì cụ Tầm khoe với tôi, mùa thanh minh năm Dậu này, cụ ông cụ bà đã theo đoàn hành hương trong làng Hổ Đội về Noi Cáo trên Thủ đô bái vọng tổ tiên. Phải vậy mà năm nay, chứng đau mỏi tuổi già của hai cụ bỗng dưng đỡ hẳn.

3. Rời chợ Gú ra tới đường Hổ Đội, sóng nước con sông nhỏ dưới cầu Gú bỗng gợi nhớ tuổi thơ. Mấy chục năm về trước, khi mà đường sá và phương tiện đi lại còn rất khó khăn, sản vật biển của ngư dân (cá khoai, ruốc biển…) không tiêu thụ được, lại không có phương tiện bảo quản, đành phải dành để chăn nuôi, trong khi, chỉ cách đó vài chục km, những thứ trên đã là quý hiếm. Cho đến nay, giá một kg ruốc biển (một loại tôm lớt) tại đây, nhiều hôm vẫn chỉ trên một chục nghìn đồng.

Cái thời xa xưa, mỗi ngày nghỉ học mang theo nắm cơm độn khoai mẹ nấu, vác giỏ xuống bãi biển cào don (một loại nhuyễn thể chỉ to bằng cúc áo), nhặt sứa, phóng còng, đào nhệch… Đến chiều, nghe tiếng tù và báo hiệu thủy triều lên từ con thuyền của đồn công an cửa biển, lao động trên bãi vội nhào lên mặt đê tránh sóng. Và mọi thứ kiếm được trong ngày không thể trở thành hàng hóa nếu qua chợ Gú không bán được cho ai. Ngày đó, cả một vùng ven biển Thái Thụy, kéo dài từ cửa sông Diêm cho đến tận Cồn Đen, cửa Lân, Cồn Vành sang đến cột hải đăng bên cửa biển Ba Lạt giáp đất Giao Thủy vẫn còn là một vùng hoang hóa. Vậy nên, những năm 70 của thế kỷ trước, Nhà nước mới mộ dân từ nhiều nơi khác về vùng bãi Thái Đô, Thái Thụy khai hoang lập nên cả một làng trồng cói.

Người xưa trở về, không còn tìm đâu ra cảnh cũ. Bởi đến những ngày này, khi đường 39B, nhất là con đường ven biển nối Quảng Ninh với thành phố Hải Phòng và các tỉnh Hưng Yên, Ninh Bình, Thanh Hóa đang vào giai đoạn hoàn thành. Cả một vùng đất ven biển tỉnh Hưng Yên vốn ngàn đời hoang lạnh bỗng bừng tỉnh và vươn vai lớn dậy. Cảng Diêm Điền tầm cỡ đón được tàu thuyền mấy trăm nghìn tấn đã vào quy hoạch. Trên khắp đồng bãi hai bên đường từ phố chợ Diêm Điền đến giáp cửa Ba Lạt, các khu công nghiệp nối nhau mọc lên. Chỉ tính riêng Khu công nghiệp Hà Liên Thái (thuộc các xã Thụy Liên, Thụy Hà, Thái Nguyên - huyện Thái Thụy, Thái Bình cũ) đã có diện tích đến cả trăm ha và đã lấp đầy. Nhà cửa, đường sá khang trang đêm đêm sáng lòa ánh điện. Hàng chục công ty trong và ngoài nước về đây làm ăn, giải quyết công ăn việc làm cho nhiều lao động.

Cách đó không xa, trên mầu lúa xanh lúa vàng mùa vụ, cột khói của hai nhà máy nhiệt điện Thái Bình đang lừng lững sớm chiều nhả khói. Người mấy xã ven biển Hưng Yên, những năm tháng này đi xa trở lại, đã thấy ấm lòng.

Xem thêm