Tên lửa vác vai A72. Ảnh: Bảo tàng Phòng không - Không quân
Tên lửa vác vai A72. Ảnh: Bảo tàng Phòng không - Không quân

Bí mật của 60 giây quyết định

“Có mấy năm thôi mà", Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân Nguyễn Văn Thoa nói thế khi chúng tôi hỏi về những ngày quân ngũ, vác trên vai chiếc tên lửa A72 và hạ gục bao nhiêu máy bay Mỹ - ngụy.

Ông cũng lắc đầu khi được hỏi việc mình bắn rơi chiếc máy bay Mỹ cuối cùng vào ngày 30/4/1975: “Tôi chỉ biết theo bộ binh và bắn, làm gì có bao giờ tính toán thời gian”.

Định mệnh vác vai

Nếu không hẹn trước, thì chúng tôi sẽ không thể nhận ra người đàn ông nhỏ bé có nụ cười lành lành, dáng vẻ nhanh nhẹn đứng trước mặt là một xạ thủ khét tiếng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Trong 5 năm quân ngũ tham gia chiến trường miền nam, ông Thoa có 18 lần khai hỏa, trực tiếp bắn rơi 12 máy bay Mỹ - ngụy. Tỷ lệ bắn chính xác của ông Thoa là hơn 72%.

Ông Thoa nói việc vào bộ đội phòng không - không quân, rồi trở thành xạ thủ là mối duyên định mệnh. Thuở bé, mỗi lần nhìn máy bay Mỹ ném bom phía Việt Trì, cậu bé Thoa vẫn đội mũ rơm ngồi nhìn từ ao cá quê nhà Cao Đại (huyện Vĩnh Tường, Vĩnh Phúc; nay là xã Sao Đại Việt, tỉnh Phú Thọ), giữa đất trời rực sáng vì bom nổ và các mảnh đạn cao xạ.

Năm 1971, vừa tấp tểnh thi xong đại học, Nguyễn Văn Thoa viết đơn tình nguyện nhập ngũ. Lúc ấy, anh thanh niên Thoa còn suýt không được nhận vì không đủ tiêu chuẩn cân nặng. Sau ba tháng huấn luyện tân binh tại Đông Anh, ông Thoa được biên chế vào đơn vị C3, Tiểu đoàn 172 trực thuộc Quân chủng Phòng không - Không quân. Ông bảo cũng chẳng hiểu sao mình lại được chọn vào phòng không, trong khi phần lớn lứa nhập ngũ tỉnh nhà đều theo bộ binh. Ông được học về cách sử dụng tên lửa vác vai A72 từ các chuyên gia Liên Xô. Thời điểm ông Thoa học, A72 thậm chí chưa xuất hiện trên chiến trường Việt Nam. Thế nên, bốn tháng học đó là giai đoạn phải giữ bí mật tuyệt đối.

Những ngày đầu tiên vác quả tên lửa, chàng trai Vĩnh Phúc choáng ngợp. A72 là loại tên lửa do Liên Xô sản xuất, có tên gọi khác là Strela-2 (Mũi tên). Mỹ gọi A72 là SA-7. Tầm bắn của tên lửa từ 500-5.500 m, chiều dài 1,4 m, đường kính 70 mm, nặng 9,97 kg. Tên lửa A72 áp dụng nguyên lý đầu dò tầm nhiệt. Khi bắn, xạ thủ vác lên vai và nhấn nút bắn.

Tên lửa A72 lúc đó là vũ khí quá hiện đại so với tầm hiểu biết của anh thanh niên 19 tuổi. “Chuyên gia người Liên Xô bảo chúng tôi rằng cả tỉnh Vĩnh Phúc làm ba năm mới mua được quả tên lửa tôi đang cầm trên tay, nên mình cũng sợ chứ", ông Thoa nhớ lại. Chàng thanh niên cảm thấy trách nhiệm của mình lớn lao hơn: “Vác một gia tài trên vai, phải làm sao để mỗi quả tên lửa bắn ra đều phải hiệu quả”, đấy là áp lực không nhỏ.

Kết thúc đợt huấn luyện, Nguyễn Văn Thoa với quả tên lửa vác vai hành quân vào chiến trường B2 (miền Đông Nam Bộ). Cuộc hành trình dọc Trường Sơn kéo dài suốt bốn tháng, có lúc phải mượn cả đường phía nước bạn Lào và Campuchia để đi.

Từ Binh trạm 5, đơn vị bắt đầu đối mặt với bom pháo ác liệt. Ban ngày đi trong đạn pháo, đêm đến C-130 quần thảo. “Phim ảnh cứ mô tả quân phục chỉnh tề, chứ càng đi chúng tôi càng phải tìm cách để nhẹ nhất có thể”, ông Thoa nhớ lại. Cả bộ quân phục Tô Châu, cái chăn chiên cũng bị người lính bỏ lại trên hành trình gian khó. Vào tới chiến trường, trên người ông Thoa chỉ có bộ trang phục bình thường, mũ tai bèo, cái võng nylon.

Trận chiến đầu tiên của ông Thoa là Chiến dịch Nguyễn Huệ tại Tây Ninh, làm nhiệm vụ chốt chặn Quốc lộ 13, phối thuộc cùng Sư đoàn 7. Chiến dịch kéo dài từ tháng 5 đến hết tháng 10/1972. Năm 1972 cũng là lúc, lứa xạ thủ tên lửa vác vai lần lượt khai hỏa khắp các chiến trường, bắt đầu từ chiến trường Bình Trị Thiên.

Ông Thoa thừa nhận, lần đầu đối mặt với bom đạn, ông cũng hốt. Nhưng chính trận đầu này đã giúp ông giải tỏa tư tưởng và có được kinh nghiệm đầu tiên. Không còn là các thao tác lý thuyết, lần đầu xung trận, ông biết đó là cuộc chiến không thể quay đầu. Cả nửa thế kỷ sau, ngồi nói chuyện lại, ông Thoa bảo những ngày đó cứ vào trận là đánh, sợ hay không người lính vẫn cứ phải lao vào lửa đạn. “Thực tế trong trận chiến, càng lùi lại phía sau lại càng dễ chết”, ông Thoa kể. Bởi phía sau luôn là mục tiêu pháo kích của địch. Trong tổ chiến đấu năm người, ông là xạ thủ chính. Với tên lửa A72, tất cả mọi quyết định đều do xạ thủ.

Lần đầu ra trận với quả tên lửa chục cân vác vai, ông tiêu diệt ba máy bay địch, trong đó chiến công đầu tiên là chiếc trực thăng HU-1A. Hai chiếc còn lại là máy bay vận tải CH47.

51.jpg
Cựu chiến binh Nguyễn Văn Thoa với giấy chứng nhận Dũng sĩ diệt máy bay Mỹ - ngụy.

Nghệ thuật của từng giây

Nhiệm vụ cốt lõi của đơn vị tên lửa vác vai là yểm trợ trên không cho bộ binh. “Hạ được một máy bay địch là trận đó giảm căng thẳng ngay”, ông Thoa nhớ lại.

Ông bảo không phải mình cố chứng tỏ gì, mà muốn sống thì không được sợ chết. “Mình tận dụng thời cơ máy bay địch bay chậm, khoảng 40-50km/giờ, lúc đó chúng đang sục sạo mục tiêu để bắn đuổi, chúng sẽ hạ độ cao”, ông kể lại. Mặc dù tầm bắn tên lửa có thể lên đến 5.500 m nhưng các máy bay ông Thoa bắn hạ đều ở độ cao dưới 2.000 m. Nhưng để bắt đúng khoảnh khắc đó, người xạ thủ phải cực kỳ bình tĩnh. Mỗi quả tên lửa vác vai chỉ có pin hoạt động trong 60 giây. Khi bắn máy bay phản lực tốc độ 220 m/giây, từ lúc khóa mục tiêu, xạ thủ chỉ có chưa đầy 5 giây để thao tác và khai hỏa. Người xạ thủ phải nhạy bén dự đoán tham số đường bay để góc gặp nhau giữa đạn và máy bay càng hẹp càng tốt. Thế nên, bài học lý thuyết là đặt tên lửa lên vai, đợi đèn xanh ổn định rồi bắn, nhưng trên chiến trường, thực tế chỉ có từ 60 giây pin cho đến 5 giây quyết định ấn nút. Và thậm chí, còn phải cực kỳ chuẩn xác để phân biệt mục tiêu giữa mưa bom lửa đạn, hay giữa ánh sáng mặt trời và mây mù. Chiếc máy bay đầu tiên, ông Thoa đã thành công ở giây thứ 37.

Ông Thoa vẫn giữ tất cả những giấy chứng nhận cho mỗi chiến công mình đạt được. Mỗi lần hạ một máy bay, ông được cấp một giấy chứng nhận Danh hiệu vẻ vang, công nhận ông là Dũng sĩ diệt máy bay. Lần đầu tiên, ông Thoa cầm hai giấy chứng nhận bắn rơi máy bay sau chiến dịch Tây Ninh ngày 2/8/1972. “Lúc đó biết rằng mình làm được rồi”, ông Thoa bảo. “Ba chiếc đầu tiên mình bắn rơi vẫn là đáng nhớ nhất, lúc đó mình giải tỏa tâm lý”, ông Thoa nhớ lại.

Chiến trường đi mải miết, có khi phải qua vài trận người ta mới tổng kết để trao danh hiệu. Thế nên mỗi lần cầm giấy chứng nhận là ông Thoa nhận liền vài cái. Như tháng 4/1974, ông nhận giấy cho ba lần bắn rơi máy bay trong một chiến dịch. Năm 1975, mãi cho tới tháng 7, hai tháng sau Ngày thống nhất, ông mới có quyết định trao danh hiệu Dũng sĩ diệt Mỹ cho thành tích bắn rơi sáu máy bay thời gian này. 12 lần bắn rơi máy bay Mỹ, ông Thoa có tổng cộng chín chứng nhận Danh hiệu vẻ vang. Danh sách “bại binh” dưới tầm tên lửa của ông có từ máy bay trinh sát L19, trực thăng HU1A, HU1D cho tới máy bay vận tải CH47, máy bay ném bom AD6.

Ngày 21/3/1975, tại trận Mộc Hóa (khi đó thuộc tỉnh Kiến Tường, nay thuộc tỉnh Tây Ninh), sau khi bắn cháy một chiếc trực thăng UH1A, ông Thoa đã bị mảnh pháo địch phản kích trúng đầu. Vết thương khiến ông bị chột thủy chẩm 19%, phải về trạm phẫu thuật tiền phương T28 điều trị nửa tháng. Nhưng chiến trường đang vào cuộc quyết đấu cuối cùng. Vết thương vừa lành, người xạ thủ tiếp tục hành quân theo Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, vác tên lửa vác vai vào cửa ngõ Sài Gòn ở phía sân bay Tân Sơn Nhất.

Có thông tin rằng ông Thoa đã bắn rơi chiếc máy bay địch cuối cùng trước Ngày giải phóng miền nam, nhưng ông Thoa lắc đầu: “Cứ bám theo bộ binh, ai mà biết ngày tháng năm nào”.

Tháng 10/1975, ông Thoa được đưa ra bắc điều dưỡng, rồi ông lại bắt tay vào ôn học thi đại học. “Hồi xưa tôi thi đại học xong chẳng kịp xem điểm đã xin nhập ngũ, giờ hòa bình lại học tiếp”, ông cười. Vậy là từ anh lính tên lửa, ông chuyển ngành với 37 đồng lương tháng và 5 m phiếu vải, trở thành cậu sinh viên Trường đại học Nông nghiệp 3 Thái Nguyên. “Sinh viên chế độ ngang công chức nhà nước”, người lính cười vang.

Ký ức những ngày tên lửa vác vai bám theo bộ binh, não căng lên theo từng đường khói dõi theo đám máy bay, ngủ yên một góc cùng mấy tấm giấy Dũng sĩ. Ông trở thành anh kỹ sư chăn nuôi, vẫn gầy như cái lúc mới nhập ngũ, như rất nhiều người lao động trên những nông trường xây dựng đất nước khi ấy, đơn giản, nhẹ nhàng.

Chín giấy chứng nhận Dũng sĩ, mãi tới năm 2000, ông mới mang ra khi được hỏi. Lúc ấy, nhiều người chung quanh mới biết, mấy năm anh thanh niên Nguyễn Văn Thoa đi biền biệt chiến trường miền nam, đã lập thành tích cỡ nào. Năm đó, ông nhận danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.

Ông Thoa bảo rằng: “Chiến trường vô cùng ác liệt, pháo địch bắn kinh khủng đến mức gáy tóc dựng hết cả lên”. Lúc đó, ông cũng như bao nhiêu người lính khác, đi chiến đấu chỉ biết tập trung vào nhiệm vụ tiêu diệt địch, không tính ngày về, cũng chẳng có thời gian mường tượng xa xôi. Nhưng tất cả họ, đều vì khát vọng hòa bình cả.

Người xạ thủ vẫn còn vài vết thương, thi thoảng, nó vẫn đau nhức, như một phần quá khứ vĩnh viễn không thể quên.

“Những ai qua chiến tranh rồi không bao giờ muốn chiến tranh đâu!”, người thương binh 4/4 trầm ngâm.

Xem thêm