Ông Hùng hướng dẫn học trò làm mã cổ.
Ông Hùng hướng dẫn học trò làm mã cổ.

Bạc vàng hàng mã (kỳ 1)

Hàng mã vốn không xa lạ trong đời sống thường ngày của người dân Việt Nam. Hàng mã mang tính chất “thế” cho đồ vật, con vật, thậm chí cả người, nhằm “hiến” về cõi xa xăm, qua đó thỏa mãn nhu cầu tâm linh, tín ngưỡng một cách bức thiết mà bớt đi sự tốn kém.

Theo "Vân đài loại ngữ" của nhà bác học Lê Quý Đôn, hàng mã vốn có xuất xứ từ Trung Quốc. Khi xưa, tiền bạc thường được làm bằng kim loại, khi chôn theo người chết thì hay bị trộm mộ, gây ảnh hưởng đến cả người sống. Thêm vào đó, nếu cứ chôn theo tiền bạc thật thì không thể đáp ứng đủ, sinh ra người ta bắt đầu táng theo người chết các loại vàng bạc, tiền, bảo vật làm bằng giấy.

Văn hóa hàng mã, rồi vàng mã về tới Việt Nam đã biến đổi nhiều. Người ta không chỉ sử dụng hàng mã trong việc hóa (đốt bỏ) mà còn được dùng tựa đồ thờ cúng hay trang trí trong nhà cửa như một thú vui.

Kỳ 1: Thú chơi mã Hà Nội

Hai con phố Mã Mây và Hàng Mã trước chuyên bán vàng mã, đồ làm mã, mã Hà Nội. Nhưng sự thật là hiện nay, hiếm thấy còn một gia đình nào còn làm loại mã này, thợ mã Hà Nội người thì chuyển sang các vùng khác sinh sống, người thì đã trở về cõi xa, hàng mã Hà Nội cứ như vậy chìm sâu, mất dần sau tiếng rao ồn ã của phố thị.

Mai một mã Hà Nội

Gọi là mã Hà Nội nhưng loại mã này chủ yếu được làm ra bởi thợ mã ở phố Hàng Mã. Trong các loại mã, mã Hà Nội chủ về sự tinh xảo, kỳ công, thường phục vụ mục đích thờ, cúng và trang trí.

Một chủ làm mã Hà Nội trên phố Hàng Mã cho hay, mã này thường dùng cho giới có tiền. Mặc dù có vị trí cao nhưng mã Hà Nội đã dần trở nên thưa thớt, rồi biến mất trong khoảng thập kỷ gần đây.

Hiện nay, phố Hàng Mã chỉ buôn mã tiến, nguồn nhập từ các làng/nơi làm mã ở chung quanh Hà Nội như mã Hồ (Bắc Ninh), mã Thường Tín, mã Hoài Đức, xa hơn còn có mã Nam Định, mã Thanh Tiên (Huế), chứ không còn cơ sở nào chuyên làm mã Hà Nội. Ngoài Hàng Mã, ở Hà Nội còn làng Giáp Lục (Hoàng Mai) chuyên nghề dát thiếc vàng mã. Đáng tiếc hiện nay cũng không còn ai theo nghề.

Nguyên nhân của sự lụi tàn dòng mã Hà Nội chủ yếu do sự trỗi dậy của các loại mã đại trà, bên cạnh đó cũng không còn nhiều người đam mê sưu tầm mã làm thú vui. Sau cùng là bởi sự cạnh tranh của mã Sài Gòn.

Một lý do nữa cũng quan trọng không kém, là chính những người thợ mã phố Hàng Mã đã không còn mấy mặn mà với nghề. Trải qua biến thiên của thời gian, sự phát triển của mã đại trà (đa phần do tiện dụng, sẵn có quanh năm), khiến nhiều thợ mã ở phố cổ chuyển hẳn sang nghề đi buôn mã chứ không còn làm mã nữa. Ông Nguyễn Anh, từng là một thợ mã phố Hàng Mã cho biết, đã không còn làm mã Hà Nội từ lâu. Dù có kinh nghiệm làm mã hàng chục năm, nhưng ông Anh nhận định, mã Hà Nội quá cầu kỳ, giá thành cao dẫn đến khó cạnh tranh. “Người ta thường nói “của một đồng, công một nén”, mã Hà Nội chủ về sự kỳ công, vật bồi cũng nhiều, đầy đặn hơn mã khác. Giá thành mã Hà Nội cao. Nhiều thợ vì thế quay sang đi buôn mã, vừa nhanh, vừa kinh tế lại sẵn có”, ông Anh chia sẻ.

Ông Hùng (phường Cửa Nam, Hà Nội) là một người chơi mã lâu năm. Trong khoảng vài năm gần đây, ông bằng trải nghiệm của mình cộng thêm việc nghiên cứu đã bắt đầu cho ra những sản phẩm mã thờ, mã chơi mà theo ông là đúng tinh thần mã Hà Nội xưa. Theo ông Hùng, thợ mã Hàng Mã trước rất được trọng vọng. Họ biết đủ các ngón nghề mã, làm được tất cả các công đoạn từ dán, trổ, đột, lé, bồi, làm xương (cốt) ngựa, thuyền, hình nhân… đều tinh xảo, tỉ mẩn. Mã thành phẩm Hàng Mã vì vậy có hàm lượng thủ công rất cao, tính thẩm mỹ tốt. Giá tiền đồ mã (dù để thờ hay cúng) đắt đỏ và kén khách mua chứ không hề có chuyện “tiền ít thịt nhiều”. Vì mất thời gian, lại cầu kỳ, nên gia chủ xưa khi có việc thì phải đến tận nơi, cầu cạnh, cậy sở thợ làm cho gia đình mình trước đó cả nửa năm. Thợ mã từ lúc nhận lời mới bắt đầu làm mã theo ý của gia chủ.

Khi mã đại trà ồ ạt tràn vào chợ, phố, khắp các nơi ở Hà Nội, mã Hàng Mã dần mất đi chỗ đứng. Bởi ai cũng quan điểm vàng mã là để đốt, để “hiến” lòng thành nên cũng chẳng cần quá cầu kỳ hay tốn kém. Thợ mã từ đó chuyển thành dân buôn mã, như bao kẻ chợ khác nơi phố thị ồn ào.

51.jpg
Hộ pháp thần tướng, một mã thờ Hà Nội.

Bàn tay thợ mã

Ông Hùng chia sẻ, việc làm mã phải bắt đầu từ lựa chọn các loại giấy điều, giấy bồi, giấy bạc, tre, nan. Ông Hùng vẫn mày mò phỏng theo mã Hà Nội xưa, cho ra loại mã thờ chuyên biệt, loại mã này luôn có sự tham chiếu trực tiếp chứ không như mã trang trí để chơi.

Thí dụ như trong cung thờ, y môn, quạt vả, hộp son, tráp trầu cau, hộp đựng tiền là những vật dụng xưa nay đều thờ cúng, muốn làm cứ như vậy mà phỏng theo. Còn về mã chơi, ông tuỳ cảm hứng mà làm. Theo ông Hùng nếu không phải là người chuyên làm việc với vàng mã thì sẽ rất khó để nhận ra sự khác biệt các dòng mã. Như mã “Cô Sơn Trang” và hình nhân bản mệnh sản xuất ở Nam Định (nay là Ninh Bình), lượng chi tiết trên sản phẩm dày đặc hơn. Cả hai hình nhân này đều đứng trên bệ đỡ hình hộp. Hình mã đeo vân kiên, đội nón, hoa tai rất đầy đủ, hình bản mệnh thì lại thắt hai dải lụa bên hông sinh động. Cũng như vậy nhưng hình nhân Đông Hồ (Bắc Ninh) lại làm khuôn mặt phụ nữ bằng nhựa, tỷ lệ từ mặt, thân đến chân có thay đổi khác, không đứng trên hộp.

Nói thêm về thú chơi mã của người Hà Nội, theo ông Hùng, đồ mã xưa không chỉ dùng riêng trong khoa nghi, lễ cúng mà còn đi vào đời sống như một thú vui, cần đầu tư nhiều thời gian, chất xám, tiền của. Đồ hàng mã qua đó phần nào thể hiện cái “tịnh” và “tinh” trong tư duy lẫn tâm hồn của người sưu tập.

“Mỗi thợ mã lại có một bí quyết làm nghề, góc nhìn nghệ thuật và cảm quan khác biệt. Điều này giúp hàng mã của họ có tính cá nhân riêng, độc bản. Họ thông qua hàng mã khám phá thêm các khía cạnh của tâm linh lẫn nghệ thuật. Thí dụ như một tòa Chúa Sơn Trang để cúng cao 2 m, nhưng gia chủ lại muốn làm mô hình mã chỉ cao bằng chiếc gối vỗ. Người thợ lúc này sẽ vận dụng đủ kỹ năng, kinh nghiệm của mình, thổi vào mã phẩm các yếu tố truyền thống trên trang phục, truyền thuyết trên dáng điệu, cử chỉ, cùng các phụ kiện (quạt ngà, hài xảo) đi kèm. Qua đó làm nổi bật lên một vị Chúa Sơn Trang quyền hành, vẫn lấp lánh ánh vàng ánh bạc nhưng lại độc bản, không thường xuyên thấy”, ông Hùng cho biết.

Đồ mã sở hữu nhiều công năng khác nhau, nhưng có thể chia làm đồ mã thờ và đồ mã tiến (để đốt sau buổi lễ). Ở một số nơi còn dùng đồ mã để trang trí nhà cửa, làm đồ chơi cho trẻ em... Trải qua thời gian, người ta bắt đầu tạo ra những loại mã phẩm gắn với thời đại. Nếu trước kia hóa xe đạp đã là sang, thì cá biệt ngày nay còn có thợ mã làm ra mã hình xe máy SH, máy bay, xe máy Dream, cao ốc, trạm xăng, thậm chí cả người giúp việc.

Ngoài kinh nghiệm, thợ mã cũng nên có trí tưởng tượng phong phú, hòng có đáp án cho những yêu cầu đặc biệt mà khách hàng đưa ra. Điều này được ví như sự phá bỏ một khuôn mẫu, thứ rất thường thấy trong cách làm mã. Bởi có nhiều người sưu tập mã không thích những gì rập khuôn, càng mới mẻ, càng khó thực hiện thì tính độc bản càng cao, mới đáng để họ rút hầu bao. “Ví như hình tượng một ông quan Tuần, khách không muốn làm quan Tuần cầm thanh long đao như thường. Họ có ý tưởng về một vị quan Tuần cưỡi ngựa. Nhưng cốt ngựa mã cảnh lại quá nhỏ, điều này khiến thợ mã phải bỏ thêm công sức để nghiên cứu. Thời gian có thể sẽ không tính bằng tuần hay tháng. Họ phải tưởng tượng cho ra hình ảnh một người cưỡi ngựa sẽ như thế nào với kích thước nhỏ, thái độ, cử chỉ lẫn động tác ra sao, vừa bảo đảm thẩm mỹ nhưng vẫn không mất đi cái truyền thống vốn có”, ông Hùng nói.

Trong cuốn sách “Đồ Mã Việt Nam” của tác giả Nguyễn Thị Thu Hòa có ghi các bước làm mã như: sáng tác mẫu, bồi phẩm (nhuộm mầu giấy), bồi hồ, đồ gõ (làm với các loại mã cần tạo hình như ấm, chén, bát, đĩa), đồ gò (loại có khuôn như giầy, mũ, nón, loại không khuôn như trang phục, vật dụng, trang sức) và đồ đan phất tức đan xương, bọc giấy lên xương để làm mã hình con vật.

(Còn nữa)

Xem thêm