Trao đổi ý kiến về tác phẩm của Nguyễn Du trong một tọa đàm do Hội Kiều học Việt Nam và Viện Nghiên cứu danh nhân tổ chức. Ảnh: QUANG HƯNG
Trao đổi ý kiến về tác phẩm của Nguyễn Du trong một tọa đàm do Hội Kiều học Việt Nam và Viện Nghiên cứu danh nhân tổ chức. Ảnh: QUANG HƯNG

260 NĂM SINH VÀ 205 năm NGÀY MẤT ĐẠI THI HÀO NGUYỄN DU:

Còn đó nhiều câu hỏi

Có được những đóng góp cho muôn đời, Nguyễn Du của chúng ta đã phải gồng mình đến độ nào để có thể trút hết năng lượng cho thơ? Xin lấy một câu thơ của thi sĩ Tản Đà diễn tả cho nhận xét này: “Đường xa, gánh nặng, trời chiều/Cơn giông, biển lớn, mái chèo, thuyền nan!”.

1. Cuộc đời của Nguyễn Du chỉ khiêm tốn có 55 năm từ khi ra đời năm 1765 tại phường Bích Câu Thăng Long (Hà Nội) đến khi tạ thế ngày 10/8 Canh Thân (1820) tại Phú Xuân (Huế). Cả ông, bà, cha mẹ Nguyễn Du đều sinh trưởng và lập nghiệp ở Tiên Điền (Hà Tĩnh) nhưng tổ nội sáu đời trước thì gốc gác ở Canh Hoạch,Thanh Oai, nay là Dân Hòa, Hà Nội.

Gia đình Nguyễn Du có truyền thống học hành, khoa bảng nổi tiếng cả nghiệp văn lẫn võ. Riêng Nguyễn Du thì có những thăng trầm! Mười tuổi ông mất cha, 13 tuổi mất mẹ, phải sống dựa vào các anh Nguyễn Khản, Nguyễn Điều và đến 15 tuổi thì sang Hải An, Thái Bình ở nhà ông Đoàn Nguyễn Thục, đồng liêu của cha và anh, sau này thành bố vợ Nguyễn Du. Ông từng được tập ấm chức Chánh thủ hiệu ở Thái Nguyên. Nhưng đến năm 1786 vì lánh nạn Tây Sơn, ông lại về Thái Bình quê vợ. Đây là thời kỳ thơ ông viết "Hồng Lĩnh vô gia huynh đệ tán" (Hồng Lĩnh không nhà, anh em tan tác) - cũng là thời kỳ được xem là "mười năm gió bụi" của đời ông? Năm 1795, vợ mất, ông đưa người con duy nhất là Tứ về quê Hà Tĩnh. Năm 1802, mùa thu, Gia Long diệt nhà Tây Sơn, lập nước và bổ nhiệm Nguyễn Du làm Tri huyện Phù Dung (Hưng Yên), rồi Tri phủ Thường Tín (Hà Nội), rồi Cai bạ (Quảng Bình). Tháng 2/1813 đến tháng 4/1814, ông được giao Chánh sứ sang nhà Thanh, trở về được thăng Hữu Tham tri bộ Lễ. Ngày 10/8 Canh Thân (16/9/1820), Nguyễn Du mất ở Phú Xuân (Huế), sau một thời gian lâm bệnh.

122.jpg

2. Hiện có nhiều ý kiến băn khoăn: Mười năm gió bụi Nguyễn Du có thật ở 10 năm xứ Thái Bình quê vợ? Nguyễn tuổi trẻ, thân trai, có học thức chắc khó chấp nhận quẩn quanh nơi nhà vợ 10 năm? Thái Bình là vùng cửa biển, rất không an toàn vì hải tặc hay vào cướp phá! Ở 10 năm trời mà thơ viết về vùng này chỉ khoảng 6, 7 bài khi ông là một tài năng thơ ca thì lý do quả là chưa thuyết phục? Thời gian Nguyễn Du làm Chánh thủ hiệu ở Thái Nguyên cũng không rõ ràng? Là chỉ huy quân sự, ông làm gì khi Tây Sơn tấn công, rồi lại có tin ông trở về quê vợ? Lại có một giả định, Nguyễn Du từng có một hành trình riêng trong vai lữ khách, nhà sư, thầy thuốc... đi lên phương bắc, bởi có rất nhiều bài thơ ông viết về cảnh vật, con người, sự kiện của Trung Hoa hoàn toàn không trùng với con đường đi sứ năm 1813 sau này? Còn nữa, Nguyễn Du và Hồ Xuân Hương gặp nhau lúc nào? Chuyện tình của họ trong ba năm ra sao mà thơ Xuân Hương lại đầy ẩn ức? Cuộc sống riêng của Nguyễn Du ra sao với người vợ tào khang và những người con luôn trong tình trạng đói dài "thập khẩu hài nhi thái sắc đồng"? (Mười miệng ăn của trẻ mặt xanh như tàu lá).

Về thái độ chính trị, Nguyễn Du có chống Tây Sơn không? Có nét rất lạ về gia đình ông? Cha, anh ông là Nguyễn Nghiễm, Nguyễn Khản…, đều là những người tận tâm phò Lê - Trịnh. Một anh nữa, Nguyễn Quýnh còn ra mặt chống Tây Sơn nên làng Tiên Điền bị làm cỏ tan hoang! Nhưng một anh khác, Nguyễn Nễ (Đề), rồi anh vợ là Đoàn Nguyễn Tuấn, cháu ruột là Nguyễn Thiện thì lại tận tâm phục vụ Tây Sơn? Còn riêng Nguyễn Du thì làm quan một cách âm thầm dưới triều Gia Long và nổi tiếng là một trong An Nam ngũ tuyệt với ông cháu tri âm là Nguyễn Hành nổi danh tài tử?

Thơ văn Nguyễn Du để lại không ghi thời gian sáng tác, qua thơ ông ta chỉ biết ông từng đi, từng sống nhiều nơi, chứng kiến rất nhiều cảnh đời, cảnh người và suy ngẫm rất sâu về nhân tình thế thái, gửi gắm rất nhiều tâm sự riêng chung.

3. Thử làm một thống kê, ta thấy Nguyễn Du đã từng ở rất nhiều vùng không gian mà thơ ông đề cập. Ở Việt Nam là Thăng Long nơi sinh, ở Tiên Điền, Hoa Thiều quê cha, quê mẹ Bắc Ninh cũng là nơi chị gái và em trai ông lấy chồng, lấy vợ, lập nghiệp. Ông còn ở Thái Bình quê vợ, ở Thái Nguyên, Hưng Yên, Thường Tín, Quảng Bình, Huế thời làm quan... Dấu chân ông in khắp từ Lạng Sơn vào đến Huế. Ông giao tiếp với rất nhiều hạng người, lớp gần gũi như cha mẹ, anh em, vợ con, lớp bạn bè đồng liêu, yêu thích văn chương không kể tuổi tác như Vũ Trinh, Đoàn Nguyễn Tuấn, Nguyễn Hành hay cả gia đình họ Nguyễn Huy bên Trường Lưu. Từ nhỏ ông còn được các vị quan to như Hoàng Ngũ Phúc thân mật tặng kiếm, Nguyễn Du tiếp xúc với nhiều tăng ni, phật tử và hiểu biết về Thiền, ông đi sứ chắc cũng tiếp xúc với nhiều đại sứ nước ngoài, được diện kiến vua Thanh… Nhưng hơn hết ông đã được gặp gỡ với rất nhiều quần chúng vô danh, những người dân lao động trên cuộc hành trình tự nguyện ấy. Có lẽ, so với người cùng thời, Nguyễn Du đã có được một vốn kiến văn cực kỳ phong phú để bổ trợ cho những công trình ông sẽ cho ra đời.

Giờ đây, cả thế giới đều biết Nguyễn Du - Tố Như là một Danh nhân văn hóa tầm nhân loại. Đóng góp của Nguyễn Du về văn hóa không chỉ trong phạm vi Việt Nam mà còn sức lan tỏa rộng rãi. Đó là bởi trong suốt hành trình của mình, Nguyễn Du đã ra sức học hỏi, suy nghĩ, cảm thông, phát hiện ra nhiều giá trị ẩn tàng của nhiều lớp người, và bằng tài năng trác tuyệt của mình, bằng khả năng diễn tả ngôn ngữ, không chỉ tiếng Việt mà cả chữ Nôm, chữ Hán, ông đã để lại cả một kho tàng trí tuệ văn hóa lớn cho đời sau… Ngẫm câu thơ của Tản Đà, càng thấy cuộc đời thơ của Nguyễn Du đúng là một tự nguyện, một hy sinh của một tâm hồn thánh thiện. Nhưng, chấp nhận hành trình này thì Nguyễn Du của chúng ta thành bất tử, trường tồn.

Xem thêm