Thư của Bác gửi hội nghị kiến trúc sư năm 1948. Tài liệu lưu trữ của Hội kiến trúc sư Việt Nam.
Thư của Bác gửi hội nghị kiến trúc sư năm 1948. Tài liệu lưu trữ của Hội kiến trúc sư Việt Nam.

KỶ NIỆM 80 NĂM CÁCH MẠNG THÁNG TÁM VÀ QUỐC KHÁNH 2/9

Tư tưởng “Vì Dân” của Bác Hồ: Nền tảng phát triển kiến trúc Việt Nam

Tư tưởng vì dân, giản dị, tiết kiệm, không phô trương lãng phí của Người chính là nền tảng phát triển của kiến trúc Việt Nam, đặc biệt là trong giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Đó là kim chỉ nam định hướng cho các hoạt động thiết kế, quy hoạch, xây dựng, nhằm phục vụ tốt nhất lợi ích lâu bền của đất nước, hạnh phúc của nhân dân.

1. Tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là ánh sáng soi đường cho sự nghiệp xây dựng, phát triển và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam hiện nay và trong kỷ nguyên mới.

Tình cờ tôi được đọc hồi ký của Đại tá Hoàng Hữu Kháng, nguyên Cục trưởng Cảnh vệ (Bộ Công an), người đã trực tiếp bảo vệ Bác Hồ từ năm 1945 đến 1951, trong đó có nhắc đến mấy câu thơ sau: “Trên có núi/Dưới có sông/Có đất ta trồng/Có bãi ta vui/Tiện đường sang Tổng bộ/Thuận lối tới Trung ương/Nhà thoáng ráo, kín mái/Gần dân, không gần đường”. Theo tác giả, đó là lời Bác dặn các chiến sĩ cảnh vệ mỗi khi chọn địa điểm, vị trí làm lán, dựng nhà cho Bác ở chiến khu Việt Bắc.

Những năm chống Pháp, Bác Hồ đã phải nhiều lần chuyển chỗ ở để bảo đảm an toàn. Gọi là nhà cho sang, chứ thực ra chỉ là cái lán được dựng trong rừng già, bằng tre nứa, mái lợp lá gồi. Anh em cảnh vệ nghe nhiều thành quen. Lời Bác dặn giống như bài thơ, dễ nhớ. Cũng theo Đại tá Kháng, thì tìm được một địa điểm đúng theo yêu cầu của Bác không dễ dàng chút nào. Bác còn dạy cả cách làm nhà sao cho diện tích vừa đủ, tiện cho sinh hoạt, làm việc, tiết kiệm được công sức và bảo vệ được cây cối “làm lán phải dựa vào cây, không được chặt cây”. Bác thích ở nhà sàn, vì theo Bác “nhà sàn vừa vệ sinh, vừa phù hợp với nơi rừng núi”…(Chuyện kể của những người giúp việc Bác Hồ, NXB Thông tấn, Hà Nội, 2003).

Khi hội nghị thành lập Đoàn Kiến trúc sư Việt Nam (tức Hội KTS Việt Nam ngày nay) tiến hành ngày 27/4/1948 tại thôn Thản Sơn, Lập Thạch, Vĩnh Yên (nay là tỉnh Phú Thọ), Bác đã gửi thư chúc mừng và căn dặn: “…Chúng ta phải tùy hoàn cảnh mà xây dựng ngay trong khi kháng chiến và sau khi kháng chiến thành công. Tôi mong Hội nghị sẽ đi tới những kế hoạch thiết thực với tình thế hiện tại, và những chương trình kiến thiết hợp với tương lai, kế hoạch và chương trình đúng tinh thần Đời Sống Mới. Tôi lại mong Hội nghị chú trọng đặc biệt tới vấn đề nhà ở tại thôn quê, tìm ra những kiểu nhà giản dị và cao ráo, sáng sủa và rẻ tiền” (Tư liệu lưu trữ của Bảo tàng Hồ Chí Minh và Hội KTS Việt Nam).

2. Kháng chiến thắng lợi, miền bắc kiến thiết và xây dựng chủ nghĩa xã hội với vô vàn khó khăn về nguồn lực và tài chính. Nhưng với quyết tâm của Chính phủ nhằm ổn định đời sống cho nhân dân, cho cán bộ, công nhân, gia đình từ chiến khu trở về, từ miền nam tập kết ra bắc…, các khu nhà ở tập thể 4-5 tầng đầu tiên được xây dựng ở Hà Nội, như khu tập thể Kim Liên, Nguyễn Công Trứ… với sự giúp đỡ của các chuyên gia Triều Tiên. Ngày 29/8/1958, tại Hội nghị của Bộ Chính trị về mở rộng Hà Nội theo kế hoạch dài hạn, Bác Hồ đã nêu rõ: “Mở rộng thành phố phải căn cứ vào thiên thời (mưa, gió, nắng…), địa lợi (địa chất, sông hồ…) và nhân hòa (lợi ích của nhân dân, của Chính phủ…). Xây dựng phải có quy hoạch, đồng bộ, làm từng bước và chú ý cả nội và ngoại thành Hà Nội”.

Tại Hội nghị Bộ Chính trị nghe báo cáo về đồ án quy hoạch xây dựng Hà Nội mở rộng (ngày 16/11/1959), Bác căn dặn cụ thể: “Trong thiết kế phải đồng bộ đường sá, hệ thống thoát nước, lưới điện... tránh cản trở sự đi lại của nhân dân. Phải có quy hoạch trước, tránh làm rồi lại phá đi”. Bác cũng nhắc: “Công tác quy hoạch phải hợp lý, bảo đảm được cả về kinh tế, mỹ quan và quốc phòng, phải có kế hoạch vận động quần chúng tham gia, có Ban Phụ trách để chịu trách nhiệm, tránh lỗi lầm, lãng phí”, “quy hoạch thành phố phải có nhiều cây xanh, đường phải thẳng, có đường trung tâm buôn bán, hệ thống cống ngầm phải đảm bảo vệ sinh, hệ thống đường xe điện, xe lửa phải bố trí sao cho phù hợp”.

Bác rất quan tâm đến các công trình như công viên, trường học, bệnh viện, nhà văn hóa… Đầu năm 1960, Chính phủ định làm một hội trường có quy mô lớn ở khu Quần Ngựa để làm nơi họp Quốc hội. Bác đã nói: “Chưa nên làm vì dân ta còn khổ quá. Bao giờ dân ta khá hơn, xóa được các nhà ổ chuột thì hãy làm. Mình nghèo anh em ai người ta cũng biết, không có gì phải xấu hổ vì không có hội trường lớn”.

Ngôi nhà sàn Bác Hồ ở Phủ Chủ tịch (do KTS Nguyễn Văn Ninh thiết kế) là nơi hội tụ và tỏa sáng những đức tính cao đẹp của Bác với kiến trúc giản dị, mộc mạc, phản ánh nét triết lý sống và đạo đức cách mạng của Người. Ngôi nhà sàn nép mình dưới tán cây xanh mát, chỉ hai tầng với vật liệu quen thuộc như gỗ, mái ngói. Nội thất cũng hết sức tối giản, một chiếc giường nhỏ, bộ bàn ghế gỗ, một giá sách đơn sơ và vài vật dụng cá nhân thiết yếu. Mọi thứ được tính toán sao cho hiệu quả, bền vững và tối thiểu chi phí. Sự lựa chọn sống trong căn nhà sàn này thay vì ở dinh thự sang trọng đã thể hiện tính khiêm tốn tột cùng của Bác. Người luôn muốn sống hòa mình với thiên nhiên, gần gũi với đời sống của nhân dân lao động, không tự đặt mình lên trên quần chúng, và luôn là tấm gương sáng về tinh thần tiết kiệm và chống lãng phí. Ngôi nhà sàn là minh chứng cụ thể cho đức tính này. Ngay cả vườn cây, ao cá chung quanh được Bác tự tay chăm sóc, vừa tạo cảnh quan xanh mát vừa là nơi Bác thư giãn, tập thể dục sau những lúc làm việc căng thẳng, bận rộn. Bác thường xuyên dành thời gian cho cá ăn, tập thể dục mỗi sáng sớm. Lối sống gần gũi thiên nhiên không chỉ giúp Bác giữ gìn sức khỏe mà còn thể hiện một tâm hồn thanh cao, phản ánh tình yêu của Bác đối với đất nước, con người, văn hóa, cảnh vật Việt Nam. Trong bối cảnh kiến trúc hiện đại du nhập, Bác vẫn chú trọng gìn giữ và phát huy những giá trị kiến trúc truyền thống, như sử dụng vật liệu tự nhiên (tre, gỗ, ngói...), thiết kế thông gió tự nhiên, tận dụng ánh sáng mặt trời, và tạo không gian sống gần gũi với thiên nhiên (sân vườn, ao cá). Đồng thời, Bác cũng khuyến khích sự sáng tạo, đổi mới trên nền tảng truyền thống để tạo ra những công trình vừa hiện đại vừa mang hồn cốt Việt Nam. Điều này không chỉ giúp công trình thích nghi tốt với khí hậu nhiệt đới gió mùa mà còn góp phần bảo tồn và phát huy di sản văn hóa.

3. Nghiên cứu kiến trúc, tôi luôn tìm thấy trong những lời căn dặn rất đỗi giản dị mà sâu sắc của Bác một tư tưởng lớn vì dân, gần dân, khiêm tốn, giản dị, không phô trương, thể hiện một tầm nhìn xa và rộng, một tư duy hiện đại trong phát triển dù ở bất kỳ hoàn cảnh nào, giai đoạn nào của đất nước. Những điều Bác đặt ra rất thiết thực, chứa đựng các nguyên tắc rất cơ bản của nghệ thuật quy hoạch kiến trúc phương Đông và phương Tây, trân trọng bản sắc văn hóa dân tộc, từ cách chọn địa điểm phù hợp với phong thủy (tựa núi-nhìn sông) cho đến giao thông thuận tiện nhất, đi lại gần nhất, phù hợp hoàn cảnh thực tế (quy hoạch hiện đại châu Âu những năm cuối thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21 đề cập đến đó là kiến trúc xanh; thành phố 15 phút…). Nhà ở dù đơn sơ, chỉ sử dụng vật liệu tự nhiên sẵn có như tre, nứa, lá gồi nhưng phải thoáng mát, cao ráo, kín mái, diện tích sử dụng vừa đủ tránh lãng phí, hài hòa với thiên nhiên (kiến trúc xanh, thích dụng, kinh tế, phù hợp đối tượng, hoàn cảnh). Những vấn đề mà Bác chỉ ra cho ngành kiến trúc, quy hoạch nước ta đã thể hiện sâu sắc tư tưởng của Người, kiến trúc phải có văn hóa, có bản sắc và có tính hiện đại. Kiến trúc phải vì dân, phục vụ đời sống của nhân dân, vì lợi ích của đất nước.

Tư tưởng “Vì Dân” của Bác Hồ đã trở thành một triết lý xuyên suốt, định hình sự phát triển của kiến trúc Việt Nam trong nhiều thập kỷ. Ngày hôm nay, khi bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, nhưng tư tưởng của Bác, những lời căn dặn của Bác về kiến trúc, về quy hoạch năm xưa vẫn mãi còn nguyên giá trị, là những bài học quý giá để chúng ta vận dụng vào lập quy hoạch, xây dựng, phát triển nhà ở đô thị-nông thôn, nhà ở xã hội…trong thời kỳ mới.

(Bài viết có tham khảo tư liệu của Bảo tàng Hồ Chí Minh, “Hồ Chí Minh tuyển tập” và internet).

Xem thêm