Ký họa chân dung trong không gian phố đi bộ hồ Gươm dịp cuối tuần. Ảnh: HẢI NAM
Ký họa chân dung trong không gian phố đi bộ hồ Gươm dịp cuối tuần. Ảnh: HẢI NAM

Chuyên đề: Sớm hiện thực hóa giấc mơ nghệ thuật làm giàu không gian công cộng

Phải có luật, có dân và có truyền thống

Một quảng trường, một con phố, hay góc công viên, tất cả đều có thể biến thành không gian nghệ thuật, nơi mỹ thuật, kiến trúc, di sản... cùng hội tụ. Ở đó, khán giả không còn đứng ngoài, mà trở thành “người đồng sáng tạo”, góp phần làm nên sức sống của đô thị. Một số chuyên gia, nghệ sĩ chia sẻ với Thời Nay.

Nghệ sĩ thị giác Nguyễn Thế Sơn, Giám tuyển độc lập, giảng viên ngành nghệ thuật thị giác Trường Khoa học liên ngành và Nghệ thuật, Đại học Quốc gia Hà Nội:

132.jpg

“Cần hành lang pháp lý rõ ràng cho nghệ thuật công cộng, hướng tới sự bền vững”

Chúng ta chưa có một khái niệm cụ thể về nghệ thuật công cộng. Không có dự án nào được gọi tên đúng nghĩa, phần lớn những gì vẫn gọi là “nghệ thuật công cộng” thực ra chỉ được xếp vào hạng mục “chỉnh trang”, “trang trí đô thị”. Chính vì vậy, cái gọi là “public art” cần được công nhận và bảo hộ. Ở nhiều nước, nghệ thuật công cộng là một lĩnh vực có hành lang pháp lý, cơ chế tài chính và thiết chế quản lý rõ ràng.

Ở Mỹ, chương trình Art in Architecture yêu cầu trích ngân sách để phục vụ nghệ thuật cho các công trình liên bang từ những năm 1963. Không chỉ quản lý, duy trì công trình nghệ thuật công cộng, nhà nước còn thúc đẩy sự tham gia của cộng đồng vào quá trình sáng tác và bảo vệ tác phẩm. Những mô hình như vậy không chỉ bảo vệ nghệ sĩ mà còn khiến nghệ thuật công cộng trở thành phần không thể thiếu của đô thị...

Giữa nhịp chảy của đô thị hoá, việc kết hợp di sản với sáng tạo đương đại là một hướng đi tốt nếu làm khéo. Không bao giờ “đè” di sản bằng cái mới, mà tạo thêm lớp ý nghĩa để người xem nhận ra và trân trọng hơn giá trị sẵn có. Các dự án ở ga Long Biên, Phúc Tân hay cầu đi bộ Trần Nhật Duật là thí dụ, chúng gắn với câu chuyện lịch sử và cảnh quan địa phương, khơi gợi ký ức đô thị.

Nhưng muốn làm được vậy phải có một nhóm chuyên gia gồm kiến trúc sư, nhà quy hoạch, nhà thiết kế cảnh quan và nghệ sĩ cùng bàn bạc, định hướng từ đầu. Điều này hiếm khi xảy ra và đôi khi ngay cả mục tiêu sử dụng không gian cũng không rõ ràng trước khi bắt tay vào làm.

KTS Trần Huy Ánh, Ủy viên Thường vụ Hội Kiến trúc sư Hà Nội:

133.jpg

“Không gian công cộng phải là của nhân dân và được nhân dân quyết định”

Hà Nội từ xưa vốn là nơi hội tụ của người tứ xứ đến sinh sống, buôn bán, nên nhu cầu về những không gian công cộng đã trở thành căn cốt của đô thị này. Không gian công cộng không chỉ là công viên, quảng trường, nhà văn hóa… mà còn là bến nước, giếng làng, chợ phiên, lễ hội, không gian tín ngưỡng. Khi đất nước giành được độc lập, tài sản công cộng trở thành của toàn dân, được hồi sinh và mở rộng. Các công viên mới như Thống Nhất, đường Thanh Niên, các cung văn hóa công nhân… đã tạo sức sống mới cho thành phố, kết nối cộng đồng, thúc đẩy sinh kế và phản ánh bản sắc văn hóa.

Vì vậy, điều quan trọng nhất là phải xác tín rằng đó là không gian “không thuộc về cá nhân nào”, mà được hình thành từ mong muốn của tất cả mọi người. Khi cộng đồng cùng mong muốn, cùng sử dụng, họ sẽ có động lực bảo vệ và phát triển nó. Ngược lại, khi một không gian công cộng bị biến thành tài sản tư nhân, nó sẽ nhanh chóng suy tàn. Một thí dụ tích cực là phố đi bộ hồ Gươm: cuối tuần, hàng vạn người đổ về, cùng hòa vào đời sống công cộng. Khi người dân đã chấp nhận “nhường” không gian riêng để dành cho sinh hoạt chung, thì không gian đó sẽ phát triển lâu dài.

Việc tháo dỡ “Hàm cá mập” đã mở rộng tầm nhìn từ phố cổ ra hồ Gươm, tạo hiệu ứng thị giác tích cực. Nhưng đồng thời, nó cũng phơi ra những hình ảnh xuống cấp. Đó là thách thức của phát triển đô thị: cái mới chưa chắc đã đẹp nếu cái cũ chung quanh không được cải tạo đồng bộ. Nguy hiểm nhất là những đề xuất vội vàng, như lắp màn hình LED khổng lồ hay cột ánh sáng, tôi đánh giá đó là những sáng tạo lười biếng, cẩu thả và quá dễ dãi, tầm thường, nó có thể biến khu vực giàu giá trị văn hóa thành một “hàng chợ” lòe loẹt. Không gian này cần được thiết kế như một “phòng khách” của thành phố: đẹp, tiện nghi, mát mẻ, an toàn, có khả năng tổ chức nhiều hoạt động cộng đồng, chứ không phải một sân bê-tông nóng bỏng hay bãi đỗ xe hay một chỗ để xem màn hình... Công nghệ có thể tạo hiệu ứng thị giác hấp dẫn, nhưng phải được nghiên cứu kỹ và sử dụng có trách nhiệm. Ở Văn Miếu hay một số lễ hội, khi nghệ sĩ nghiên cứu kỹ về hiệu ứng, ánh sáng đã góp phần nâng cao trải nghiệm cảm xúc cho người xem. Nhưng bên cạnh đó, cũng có nhiều trường hợp lạm dụng, ánh sáng lòe loẹt, màn hình quảng cáo gây ô nhiễm thị giác, phản cảm, thậm chí ảnh hưởng sức khỏe cộng đồng. Những cách làm đó, chỉ để thu hút sự chú ý tức thời, là thiếu khôn ngoan và cần bị loại bỏ.

Để có được một không gian công cộng hiệu quả, trước hết, phải trả lời câu hỏi: “Làm để làm gì?” và câu trả lời phải đến từ người dân, vì không gian công cộng là của nhân dân. Mọi thay đổi cần được đưa ra bàn luận công khai, minh bạch, với sự tham gia của chuyên gia, cộng đồng, các bên quản lý. Thứ hai, thiết kế phải tính đến giao thông, khí hậu, hiệu ứng thị giác, sự tương tác của công trình chung quanh và đặc biệt là cảm xúc của con người khi sử dụng...

Cần có cơ chế rõ ràng về quản lý, bảo dưỡng và nguồn lực tài chính lâu dài. Không thể phá cái cũ rồi làm cái mới mà không biết duy trì thế nào. Cũng không thể bỏ qua tiếng nói của người dân. Không gian công cộng thành công là không gian khiến người dân tự hào, muốn đến, muốn giữ gìn. Muốn vậy, phải đặt con người chứ không phải bê-tông hay công nghệ làm trung tâm của mọi thiết kế.

TS, NSƯT Bạch Vân:

134.jpg

“Nghệ thuật truyền thống cần trở về phố phường”

Âm nhạc dân tộc vốn sinh ra từ cộng đồng, gắn với chợ quê, đình làng, hội hè. Đã đến lúc phải mạnh dạn đưa âm nhạc truyền thống ra phố đi bộ, quảng trường, vườn hoa, công viên nhiều hơn nữa, để người dân đi qua có thể bất chợt nghe, dừng lại thưởng thức. Khi nghệ thuật trở thành một phần tự nhiên trong nhịp sống hằng ngày, công chúng sẽ thấy gần gũi hơn, chứ không coi đó là thứ xa vời.

Để làm được điều đó cần có một lộ trình, chủ đề diễn rõ ràng theo từng tuần, từng tháng, để tạo được nội dung xuyên suốt, làm cho người dân hứng thú. Tại các không gian công cộng còn phụ thuộc rất nhiều vào thời tiết, cảnh quan, âm thanh... chính vì vậy, bên cạnh những không gian cổ sẵn có, việc tạo dựng, tu sửa những không gian mới cần tạo ra những không gian đa năng.

Về mặt biểu diễn, tôi thấy phải tạo ra sự hấp dẫn ngay từ lần gặp đầu tiên. Ở không gian công cộng, khán giả đi qua rất nhanh, nên tiết mục cần ngắn gọn, cô đọng và có cao trào. Một trích đoạn chèo hài, một điệu xẩm quen thuộc, một bài ca trù tiêu biểu vừa đủ để khơi gợi tò mò... Đi cùng với đó, có người dẫn chuyện, giới thiệu ngắn gọn, dễ hiểu về xuất xứ, ý nghĩa của làn điệu sẽ khiến khán giả hiểu và trân trọng hơn. Nếu có thể, hãy mời khán giả thử gõ phách, hát một câu. Khi họ được tham gia, họ sẽ thấy mình là một phần của buổi diễn và chắc chắn muốn quay lại.

Ngoài ra, có thể kết hợp giữa truyền thống và hiện đại, một buổi diễn xẩm có thể thêm nhạc cụ mới phối nhẹ nhàng hoặc ca trù kết hợp với trình chiếu hình ảnh minh họa. Công nghệ chỉ nên hỗ trợ, không được lấn át, để hồn cốt truyền thống vẫn được giữ trọn vẹn.

Xem thêm