Đúc kết từ những năm bôn ba
Không khí hân hoan trong mùa thu độc lập năm 1945 kéo dài chưa được bao lâu, vận mệnh dân tộc lại bị đẩy đưa trong tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”. Nhằm giải quyết những khó khăn trước mắt, Chính phủ Lâm thời dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ban hành hàng loạt sắc lệnh. Nhờ đó, góp phần chăm lo cho người dân có cơm ăn, áo mặc, được tiếp cận tri thức.
Sâu xa hơn, Người còn trăn trở tới tương lai của những giá trị tinh thần quý báu, hun đúc nên một dân tộc Việt Nam kiên cường, giàu bản sắc trong suốt dặm dài lịch sử. Chỉ hơn 2 tháng sau ngày lập quốc, Sắc lệnh số 65 được ký vào ngày 23/11/1945, đã đánh dấu mốc quan trọng trong công cuộc bảo tồn giá trị di sản văn hóa ở nước ta. Cụ thể, sắc lệnh đề ra cho Đông phương Bác cổ Học viện nhiệm vụ “bảo tồn tất cả cổ tích trong toàn cõi Việt Nam”. “Cổ tích” tức những dấu tích như công trình kiến trúc, hiện vật, tư liệu có ý nghĩa lịch sử còn sót lại, ngày nay được hiểu rộng ra là di sản văn hóa, theo thuật ngữ của quốc tế.
“Tư duy để đi đến một bản sắc lệnh mang tầm nhìn hiện đại, bắt kịp xu hướng thế giới như vậy, dĩ nhiên không phải là chuyện ngày một, ngày hai sau khi giành được chính quyền”, TS Chu Xuân Giao, Viện Nghiên cứu Văn hóa (Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam) bày tỏ. Mà trước hết, phải được kết tinh từ trong gia đình Nho học, giàu truyền thống yêu nước. Tư duy ấy càng được mở rộng trong những ngày tháng bôn ba ở nước ngoài. Khi sống tại Anh, chàng thanh niên Nguyễn Ái Quốc tranh thủ sau giờ làm việc, thường đến khảo cứu tư liệu trong Bảo tàng Anh. Nơi đây vào đầu thế kỷ 20 nổi tiếng vì trưng bày kho hiện vật đồ sộ thuộc nhiều nền văn minh từ châu Á sang châu Phi, được người Anh thu thập và đem về nghiên cứu trên hành trình xâm lược thuộc địa. Nhờ vậy, Bác đã nhận thức sâu sắc, cổ vật là thứ mang hồn cốt của một dân tộc, nên cần phải được dân tộc ấy nâng niu.
Bảo tồn di sản: Trách nhiệm không của riêng ai
Từ những kinh nghiệm tích lũy ở xứ người, con người đề cao đạo học như Hồ Chủ tịch đã dành sự trân trọng đặc biệt đối với những thành tựu khoa học mà người Pháp, cụ thể là Viễn Đông Bác cổ Học viện tạo dựng. Ngay trong những điều lệ đầu tiên của bản sắc lệnh đã ấn định rõ, Đông Phương Bác cổ Học viện thay thế Viễn Đông Bác cổ Học viện do Pháp điều hành trước đây, bảo tồn tất cả di sản văn hóa vật thể trên khắp lãnh thổ Việt Nam.
“Những ngày đầu của nền dân chủ cộng hòa, chưa thể xây dựng ngay được một cơ quan bảo tồn văn hóa hoàn toàn mới, có tầm vóc tương xứng với thiết chế được người Pháp định vị trong mấy mươi năm qua”. Đó là một lý do được TS Ngô Vương Anh lý giải cho việc Bác Hồ lựa chọn tiếp quản một thiết chế văn hóa hình thành từ thời Pháp thuộc. Bởi từ khi thành lập vào năm 1900, Viễn Đông Bác cổ Học viện đã dày công tạo lập nên hệ thống thư viện, bảo tàng có quy mô trên khắp 3 miền mà đến nay vẫn đang hoạt động, như: Thư viện Khoa học Xã hội, Bảo tàng Lịch sử Quốc gia, Bảo tàng Cổ vật Cung đình Huế…
Bầu không khí học thuật lan rộng từ người Pháp tới người Việt Nam trong không gian Học viện. Nhiều trí thức Việt Nam được truyền thụ phương pháp nghiên cứu khoa học hiện đại, thịnh hành ở phương Tây, cách thức dập văn bia, sưu tập tư liệu. Những công trình học thuật từ đó được tiếp sức, để thoát ra khỏi cái bóng của nền Khổng học cũ kỹ. TS Vương Anh còn chỉ ra, mấu chốt trong phương pháp nghiên cứu khoa học của họ có sự gặp gỡ với trụ cột 3 nguyên tắc trong Đề cương về Văn hóa năm 1943 gồm: Dân tộc, khoa học, đại chúng, mà trong đó, khoa học chiếm vị trí trung tâm.
Từ sau năm 1945 đến 1954, công tác bảo tồn di sản đứng trước vô vàn thách thức. TS Chu Xuân Giao đánh giá, bởi ảnh hưởng của cuộc kháng chiến trường kỳ chống Pháp, hoạt động của Học viện trong thời kỳ này chưa thể tạo ra những bước đột phá. Thay vào đó, mới chỉ tập trung vào nỗ lực lưu giữ cổ vật, ngăn chặn nguy cơ bị hủy hoại. Hiểu được bối cảnh đầy ngặt nghèo ấy, ngay trong bản sắc lệnh, Bác đã khơi dậy ý thức tự hào dân tộc, động viên nhân dân nâng cao trách nhiệm bảo vệ những giá trị văn hóa dân tộc. Bằng lời hiệu triệu nghiêm cấm phá hủy những mái đình, chùa, đền, miếu, cung điện, lăng tẩm, hay những hiện vật, văn bia, thư tịch cổ, sắc lệnh nêu cao trọng trách bảo tồn văn hóa là của toàn dân, vượt ra ngoài giới hạn trách nhiệm của một cơ quan đơn lẻ.
Dẫu biết, sau cuộc chiến khốc liệt, nhất là phong trào “tiêu thổ kháng chiến” được thực hiện trên quy mô cả nước, những di sản bị mất mát, thiệt hại là khó tránh khỏi. Tuy vậy, nhiều người không quản ngại, đã giấu cẩn thận bên mình những tư liệu cổ trên suốt dọc đường tản cư. Cũng trong gian khó, ta lại càng thấy rõ sự mưu trí của con người Việt Nam qua những việc giấu sắc phong vào ống tre, vùi xuống đất, rồi vùi chuông chùa xuống ao... TS Vương Anh nhận định: “Sắc lệnh 65 như tiếp thêm động lực bảo vệ di sản trong điều kiện không thể khắc nghiệt hơn của những người dân vốn biết trân trọng truyền thống của ông cha”. Sau ngày hòa bình lập lại ở miền bắc, nhiều báu vật được nhân dân cất giữ cẩn thận mới dần được đem trả lại cho các di tích. Công tác nghiên cứu, phát huy giá trị di sản nhờ vậy từng bước được tiến hành. Bên cạnh đó, Bác cũng dành sự quan tâm tới công tác bảo tồn di sản khi trực tiếp đến thăm các di tích và ân cần trò chuyện với đồng bào. Về thăm di tích Côn Sơn (nay thuộc Hải Phòng) vào tháng 2/1965, Người căn dặn: “Cán bộ và nhân dân phải bảo vệ tốt di tích lịch sử”.
Sáng mãi trong hệ thống pháp luật
“Sau Sắc lệnh số 65, hệ thống pháp luật về bảo tồn di sản ở nước ta từng bước được hoàn thiện, phù hợp với điều kiện thực tiễn của từng giai đoạn”, TS Nguyễn Anh Thư, Trường đại học Văn hóa Hà Nội chia sẻ. Có thể kể đến Nghị định số 519-TTg, năm 1957 quy định thể lệ bảo tồn cổ tích cho đến Pháp lệnh 14-LCT/HĐNN7, năm 1984 về bảo vệ và sử dụng di tích lịch sử, văn hóa và danh lam, thắng cảnh. Đến năm 2001, Luật Di sản văn hóa được ban hành, trở thành văn bản có hiệu lực cao nhất và tác động toàn bộ đến hệ thống di sản văn hóa. Chính thức có hiệu lực trong năm nay, Luật Di sản văn hóa năm 2024 đã bổ sung thêm nhiều nội dung mới. Theo TS Thư, văn bản luật này đã giải quyết những vấn đề phát sinh do xã hội đương thời đặt ra đối với người làm công tác bảo tồn và phát huy giá trị di sản.
Một trong những bước tiến quan trọng được TS Thư chỉ ra, là sự mở rộng quan điểm tiếp cận về di sản. Trước đây, nhận thức về di sản chỉ dừng lại ở di sản vật thể và phi vật thể. Đến nay, Luật Di sản văn hóa đã bổ sung riêng một chương cho loại hình di sản tư liệu. Mà ngay từ năm 1945, Bác Hồ đã nhấn mạnh việc cấm xâm hại các hiện vật chứa đựng thông tin lịch sử. Bên cạnh đó, từ vai trò gìn giữ hiện vật của người dân nêu trong Sắc lệnh số 65, luật hiện hành đã tạo hành lang pháp lý cho các cá nhân được sở hữu di sản. Song song với đó, khuyến khích hệ thống bảo tàng ngoài công lập phát huy vai trò lan tỏa giá trị di sản.
Không chỉ là văn bản pháp luật, Sắc lệnh số 65 còn trở thành ngọn hải đăng soi sáng tư tưởng Hồ Chí Minh cho công tác bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa ở nước ta trong suốt 80 năm qua. Thời gian đã lùi xa, nhưng tầm nhìn chiến lược của Người vẫn vẹn nguyên giá trị, trở thành nền tảng khẳng định bản lĩnh văn hóa Việt Nam mạnh mẽ trong kỷ nguyên vươn mình.
Khi người Pháp bị đẩy lùi khỏi Đông Dương, nhân sự người Việt Nam khi đó tiếp tục được theo đuổi công tác nghiên cứu ở Đông Phương Bác cổ Học viện dưới sự quản lý của chính quyền mới. Không những kế thừa thành tựu khoa học, TS Vương Anh khẳng định, tinh thần của sắc lệnh thể hiện chiến lược tập hợp nhân tài bất phân đảng phái của Bác Hồ. Như vậy, Người đã thành công trong việc vận động những trí thức ấy đồng hành cùng Chính phủ trong cuộc kháng chiến sắp diễn ra.