Nâng tầm logistics qua cảng biển

Nâng tầm logistics qua cảng biển

Ngày 24/11, Cảng Quốc tế Tân Cảng - Cái Mép (TCIT) ghi nhận sản lượng vượt 2 triệu TEU trong năm 2025, đánh dấu năm thứ ba liên tiếp và cũng là thời điểm sớm nhất cảng đạt mốc sản lượng quan trọng này.

Trong bối cảnh kinh tế và vận tải biển thế giới còn nhiều biến động, ông Nguyễn Minh Tuấn, Giám đốc khai thác TCIT (ảnh bên), đã có những chia sẻ về việc nâng cao năng lực hạ tầng, hoàn thiện kết nối và tăng sức cạnh tranh của hệ thống cảng biển Việt Nam.

Phóng viên (PV): Thưa ông, trong điều kiện thị trường còn nhiều bất ổn, đâu là động lực giúp TCIT tiếp tục bứt phá, tăng trưởng?

Ông Nguyễn Minh Tuấn: Thời gian qua, TCIT đã đầu tư đồng bộ vào hạ tầng, trang thiết bị để chủ động nâng cao năng lực tiếp nhận tàu, hàng trên các tuyến tiền phương, hậu phương. Hiện cảng đủ khả năng tiếp nhận đồng thời hai tàu mẹ cỡ lớn và vận hành bến sà-lan riêng phục vụ gom hàng xuất nhập khẩu. Chúng tôi đang duy trì vận hành 12 tuyến dịch vụ quốc tế, đón được tàu mẹ trọng tải gần 174.000 DWT và kết nối thông suốt với các khu công nghiệp, cảng trong khu vực. Năng suất xếp dỡ trung bình của cảng đạt chuẩn quốc tế với 140 container/giờ/tàu đã giúp rút ngắn thời gian làm hàng và giảm chi phí logistics. Trong bối cảnh thị trường chung còn nhiều khó khăn, đây là yếu tố quan trọng để chúng tôi duy trì tăng trưởng.

PV: Chuyển đổi số đang trở thành yếu tố then chốt nâng cao năng lực khai thác của các cảng biển. Với TCIT, quá trình này đã được triển khai như thế nào?

Ông Nguyễn Minh Tuấn: Chuyển đổi số, theo chúng tôi, không còn là một lựa chọn mà đã trở thành nền tảng quyết định năng lực cạnh tranh của cảng biển hiện đại. Những năm qua, TCIT đã triển khai đồng bộ nhiều giải pháp, từ hệ thống điều hành TOPOVN cho đến cảng điện tử, thanh toán không tiền mặt… giúp các quy trình giao nhận vận hành thông suốt. Cùng với đó, việc đẩy mạnh kết nối dữ liệu điện tử với các hãng tàu đã góp phần rút ngắn thời gian xử lý, tăng độ chính xác và minh bạch trong toàn chuỗi khai thác.

Hướng tới mô hình “cảng thông minh”, TCIT cũng đang tập trung đẩy mạnh các giải pháp công nghệ như tự động hóa khâu kiểm soát cổng, nhận diện phương tiện, nâng cấp hệ thống quản lý khai thác và số hóa toàn bộ quy trình làm việc... Tuy vậy, quá trình chuyển đổi số vẫn còn gặp nhiều thách thức, đặc biệt là sự phân tán của các hệ thống và mức độ đồng bộ dữ liệu giữa cảng với hải quan, khách hàng, hãng tàu. Ngoài ra, việc tự động hóa ở bãi và cầu bến vẫn chưa đạt mức như kỳ vọng, cần tiếp tục đầu tư trong thời gian tới.

PV: Theo ông, trong bối cảnh ngành hàng hải đẩy mạnh chuyển đổi xanh hướng tới phát triển bền vững, cần những cơ chế, chính sách nào để tháo gỡ các vướng mắc hiện nay?

Ông Nguyễn Minh Tuấn: Xác định chuyển đổi xanh là hướng đi trọng tâm và lâu dài, những năm qua chúng tôi không chỉ tập trung đầu tư thiết bị tiết kiệm năng lượng, mà còn chủ động chuyển dần sang sử dụng nguồn điện sạch và xây dựng các quy trình vận hành thân thiện hơn với môi trường. Ở góc độ doanh nghiệp, chúng tôi cho rằng, chuyển đổi xanh sẽ mang lại lợi ích dài hạn không chỉ cho từng cảng mà cho cả chuỗi logistics quốc gia. Vì vậy, rất cần sự phối hợp đồng bộ trong chính sách, hạ tầng và cơ chế khuyến khích, để các doanh nghiệp cảng biển mạnh dạn đầu tư, đẩy nhanh lộ trình giảm phát thải, qua đó góp phần nâng tầm năng lực cạnh tranh của ngành hàng hải Việt Nam trong khu vực.

81.jpg
TCIT là cảng container nước sâu đầu tiên của Việt Nam được Mạng lưới Cảng biển APEC (APSN) công nhận đạt chuẩn “Cảng xanh”.Ảnh: K.MINH

PV: Sau gần hai thập kỷ hình thành và phát triển, theo ông hệ thống hạ tầng công cộng phục vụ cụm cảng Cái Mép - Thị Vải đã hoàn thiện đến đâu và những điểm nghẽn nào cần sớm được tháo gỡ?

Ông Nguyễn Minh Tuấn: Xác định phát triển cụm cảng nước sâu Cái Mép - Thị Vải là hướng đi chiến lược, ngay từ đầu những năm 2000, Chính phủ đã triển khai hàng loạt dự án đầu tư công như nạo vét luồng, lắp đặt hệ thống VTS, mở các tuyến đường kết nối và xây dựng hai bến cảng ODA đầu tiên. Chính các bước đầu tư nền tảng này đã tạo lực hút mạnh đối với nguồn lực xã hội hóa, đặc biệt là các nhà khai thác quốc tế, qua đó hình thành nên cụm cảng cửa ngõ quy mô như hiện nay.

Hơn hai thập kỷ qua, dù đã có những bước tiến quan trọng, hạ tầng kết nối vẫn là điểm nghẽn, chưa theo kịp tốc độ phát triển cũng như tiềm năng của cụm cảng Cái Mép - Thị Vải. Hiện luồng hàng hải mới được nạo vét sâu từ 14 - 15,5 m, trong khi nhiều tàu lớn có mớn nước tới 16 - 17 m, làm hạn chế hiệu quả khai thác. Trước xu hướng gia tăng kích thước tàu, việc mở rộng và đào sâu luồng lên trên 15,5 m là cấp thiết, giúp nâng năng lực vận chuyển, thu hút thêm tàu lớn và gia tăng sản lượng khu vực. Bên cạnh đó, nhiều dự án giao thông trọng điểm như cao tốc Biên Hòa - Vũng Tàu, đường 991B hay các tuyến liên vùng còn chậm tiến độ, khiến luồng hàng hóa chưa lưu thông thông suốt. Đồng thời, sự phối hợp giữa quy hoạch cảng biển - khu công nghiệp - logistics chưa đồng bộ, làm chi phí vận chuyển của doanh nghiệp vẫn cao.

Là một bến cảng khai thác tại đây, tôi cho rằng, để Cái Mép - Thị Vải phát huy cao nhất vai trò cửa ngõ xuất nhập khẩu, cần nhanh chóng hoàn thiện mạng lưới giao thông chiến lược, xây dựng cơ chế điều phối liên vùng hiệu quả và ưu tiên quỹ đất cho dịch vụ hậu cần.

TCIT là cảng container nước sâu đầu tiên của Việt Nam được Mạng lưới Cảng biển APEC (APSN) công nhận đạt chuẩn “Cảng xanh”. Từ khi hoạt động năm 2011 đến nay, cảng đã xử lý hơn 21 triệu TEU và tiếp nhận hơn 5.500 lượt tàu mẹ.

PV: Từ thực tiễn hoạt động, TCIT có những kiến nghị gì nhằm nâng cao năng lực hạ tầng, tăng cường kết nối logistics và sức cạnh tranh của cảng biển Việt Nam trong giai đoạn tới?

Ông Nguyễn Minh Tuấn: Để nâng cao năng lực hạ tầng, kết nối logistics và sức cạnh tranh của cảng biển Việt Nam, theo tôi cần tập trung một số giải pháp trọng tâm sau. Thứ nhất, đầu tư kết nối đồng bộ giữa cảng - khu công nghiệp - sân bay, hình thành hành lang logistics liền mạch, giảm thời gian và chi phí vận chuyển, đồng thời thu hút các hãng tàu lớn. Thứ hai, điều chỉnh phí hạ tầng cảng biển linh hoạt, sử dụng nguồn thu để duy trì nạo vét luồng, nâng cấp hạ tầng kết nối và tăng cường nhân lực công vụ, bảo đảm dịch vụ công 24/7. Thứ ba, đẩy mạnh chuyển đổi số và đơn giản hóa thủ tục hành chính, tạo thuận lợi cho thông quan trực tiếp tại cảng, đồng thời phát triển dịch vụ logistics đi kèm. Thứ tư, xây dựng cơ chế đặc thù cho container trung chuyển nội vùng, cho phép luân chuyển giữa các cảng trong cụm mà không cần niêm phong mới, đồng thời giám sát dữ liệu hành trình qua GPS.

Nếu các giải pháp này được triển khai đồng bộ, cảng biển Việt Nam, đặc biệt là cụm cảng nước sâu Cái Mép - Thị Vải, sẽ phát huy trọn vẹn lợi thế tự nhiên, nâng cao năng lực vận hành để cạnh tranh hiệu quả trên các tuyến hàng hải quốc tế.

PV: Trân trọng cảm ơn ông!

Xem thêm