Vốn FDI thực hiện 10 tháng đạt mức cao kỷ lục
Số liệu vừa được Cục Thống kê (Bộ Tài chính) công bố cho thấy, đến ngày 31/10, tổng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam đạt 31,52 tỷ USD, bao gồm vốn đăng ký mới, vốn điều chỉnh và giá trị góp vốn, mua cổ phần. Con số này tăng 15,6% so với cùng kỳ năm ngoái.
Trong đó, 3.321 dự án mới được cấp phép với tổng vốn 14,07 tỷ USD, tăng mạnh về số lượng (21,1%) nhưng số vốn lại giảm 7,6%. Công nghiệp chế biến, chế tạo tiếp tục là “điểm đến” chính của các nhà đầu tư khi thu hút 7,97 tỷ USD, chiếm gần 57% tổng vốn đăng ký mới. Bất động sản đứng thứ hai với 2,75 tỷ USD (19,5%), phần còn lại phân bổ vào các ngành khác với 3,35 tỷ USD (23,8%).
Trong 87 quốc gia và vùng lãnh thổ rót vốn vào Việt Nam, Singapore vẫn giữ vị trí dẫn đầu với 3,76 tỷ USD (26,7%). Theo sau là Trung Quốc (3,21 tỷ USD - 22,8%), Hồng Công - Trung Quốc (1,38 tỷ USD - 9,8%), Nhật Bản (1,17 tỷ USD - 8,3%), Thụy Điển (1 tỷ USD - 7,1%), Đài Loan - Trung Quốc (901,2 triệu USD - 6,4%) và Hàn Quốc (627 triệu USD - 4,5%).
Cùng với vốn đăng ký mới, có 1.206 dự án cũ được điều chỉnh vốn, nâng tổng giá trị tăng thêm lên 12,11 tỷ USD, tăng tới 45% so với cùng kỳ. Tính chung cả hai nguồn, công nghiệp chế biến - chế tạo vẫn chiếm tỷ trọng lớn nhất (16,37 tỷ USD, tương đương 62,5%), tiếp đến là bất động sản (5,32 tỷ USD - 20,3%) và các lĩnh vực khác (4,49 tỷ USD - 17,2%).
Hoạt động góp vốn, mua cổ phần cũng khá sôi động với 2.918 giao dịch trị giá 5,34 tỷ USD, tăng 45,1%. Trong đó, chế biến - chế tạo thu hút 1,86 tỷ USD (34,9%), lĩnh vực chuyên môn - khoa học - công nghệ đạt 1,11 tỷ USD (20,8%), số còn lại thuộc các ngành khác.
Về giải ngân, 10 tháng đầu năm ghi nhận 21,3 tỷ USD vốn FDI thực hiện, tăng 8,8% và là mức cao nhất trong vòng 5 năm. Riêng công nghiệp chế biến - chế tạo chiếm ưu thế vượt trội với 17,68 tỷ USD (83%); bất động sản đạt 1,5 tỷ USD (7%); sản xuất - phân phối điện, khí đốt, nước nóng và điều hòa không khí đạt 671,9 triệu USD (3,2%).
Ở chiều ngược lại, đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam tăng mạnh. 10 tháng có 148 dự án mới được cấp phép với 742,8 triệu USD vốn đăng ký (tăng 72,8%), cùng 28 dự án điều chỉnh vốn thêm 358,2 triệu USD, gấp 8,3 lần năm trước. Tổng vốn đầu tư ra nước ngoài đạt 1,1 tỷ USD, tăng 2,3 lần so với cùng kỳ 2024. Trong đó, lĩnh vực sản xuất - phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí chiếm tỷ trọng lớn nhất với 342,5 triệu USD (31,1%), tiếp theo là công nghiệp chế biến.
Việt Nam tiếp tục nổi bật trên bản đồ đầu tư khu vực
Các tín hiệu từ Chỉ số niềm tin kinh doanh (BCI) quý III do EuroCham công bố cho thấy môi trường đầu tư của Việt Nam vẫn giữ được sức hấp dẫn mạnh mẽ. Chỉ 3% số doanh nghiệp châu Âu xem xét rời khỏi thị trường (tỷ lệ rất thấp) trong bối cảnh kinh tế toàn cầu nhiều biến động. Chủ tịch EuroCham Bruno Jaspaert cho biết, có đến 76% số doanh nghiệp thành viên sẵn sàng giới thiệu Việt Nam như một điểm đến đáng tin cậy cho các nhà đầu tư khác, khẳng định niềm tin của cộng đồng doanh nghiệp quốc tế vào triển vọng dài hạn của nền kinh tế.
Xu hướng dịch chuyển trong dòng vốn toàn cầu cũng đang tạo thêm lợi thế cho Việt Nam. Báo cáo Đầu tư toàn cầu 2025 của Hội nghị Liên hợp quốc về thương mại và phát triển (UNCTAD) cho thấy, FDI đổ vào châu Âu giảm mạnh 58%, trong khi Đông Nam Á lại ghi nhận mức tăng 10%. Sự chênh lệch này cho thấy dòng vốn quốc tế đang tìm đến những thị trường ổn định và giàu tiềm năng hơn.
Không chỉ duy trì lượng vốn ổn định, cơ cấu FDI vào Việt Nam đang chuyển biến tích cực khi ngày càng nhiều dự án công nghệ cao, giá trị lớn lựa chọn Việt Nam. Hiệp hội Doanh nghiệp đầu tư nước ngoài (VAFIE) nhận định, quá trình chuyển dịch từ mô hình thâm dụng lao động sang thâm dụng vốn đang diễn ra rõ rệt. Tỷ lệ lấp đầy các khu công nghiệp đạt hơn 73%, được thúc đẩy bởi sự tham gia của các lĩnh vực như điện tử, dược phẩm, logistics, trung tâm dữ liệu và các ngành có hàm lượng công nghệ cao.
Kết quả 10 tháng năm 2025 tiếp tục củng cố xu hướng tích cực này. Dòng vốn nước ngoài không chỉ tăng trưởng về quy mô mà còn bền vững hơn nhờ sự đa dạng hóa ngành nghề và quốc gia đầu tư. Đây là nền tảng quan trọng để FDI duy trì đà tăng tốc trong giai đoạn cuối năm và sang năm 2026. Dù vậy, Việt Nam vẫn đối diện với những thách thức từ cạnh tranh khu vực, yêu cầu hội nhập sâu và tiêu chuẩn quốc tế ngày càng cao. Tuy nhiên, những thành tựu hiện tại cho thấy Việt Nam vẫn giữ vững vai trò điểm sáng của khu vực Đông Nam Á trong thu hút vốn đầu tư quốc tế.
Để củng cố vị thế này, Việt Nam cần tiếp tục nỗ lực mạnh mẽ trong cải cách thể chế, cắt giảm chi phí thủ tục, nâng cao chất lượng nhân lực và tạo lập môi trường đầu tư thông thoáng, minh bạch. Đồng thời, các địa phương cần tăng năng lực quản trị, phối hợp chặt chẽ hơn để tránh phân mảnh chính sách và tối ưu hóa hạ tầng phục vụ công nghiệp - từ logistics, năng lượng, đến đất đai và khu công nghiệp xanh.
Theo VAFIE, định hướng thu hút FDI thời gian tới phải gắn liền với mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Việt Nam không chỉ cần thêm nhiều dự án mới, mà cần những dòng vốn có khả năng lan tỏa công nghệ, hỗ trợ
doanh nghiệp trong nước tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu. Do đó, tiêu chí đánh giá thu hút FDI cần chuyển từ “số lượng vốn” sang “mức độ kết nối”: liên kết sản xuất, chuyển giao công nghệ, đào tạo lao động, tham gia chuỗi cung ứng và hoạt động R&D.
“Chỉ khi doanh nghiệp Việt Nam đứng cùng doanh nghiệp FDI trong cùng một chuỗi sản xuất - từ linh kiện, thiết bị, dịch vụ kỹ thuật cho đến nghiên cứu - thì lúc đó FDI mới thật sự trở thành động lực bên trong của kinh tế Việt Nam”, VAFIE nhận định.
Việt Nam đang đứng trước cơ hội lớn để bứt phá. Nhưng để biến lợi thế thành năng lực cạnh tranh dài hạn, cần một chiến lược thu hút FDI thế hệ mới - chọn lọc, chất lượng cao và hài hòa với mục tiêu phát triển bền vững của quốc gia.