Phóng viên (PV): Ngập úng đô thị ngày càng có xu hướng gia tăng cả về mặt không gian lẫn thời gian. Theo ông, điều này ảnh hưởng đến đời sống người dân và kinh tế ra sao?
TS, KTS Ngô Trung Hải: Tôi xin khẳng định, không có thành phố nào trên thế giới mà vừa mưa xong đã khô ráo ngay. Điều quan trọng là khả năng tiêu thoát nước của đô thị trong thời gian hợp lý như thế nào. Thí dụ, nếu một khu vực chỉ ngập 10-15 phút sau mưa lớn thì vẫn có thể chấp nhận được. Nhưng nếu nước đọng hàng tiếng đồng hồ, thậm chí nửa ngày, hoặc nhiều hơn thì đó là dấu hiệu năng lực thoát nước yếu, hoặc là quy hoạch phát triển đô thị chưa theo kịp sự biến đổi khí hậu.
Mức độ ngập (gây úng) cũng thể hiện qua độ sâu của mực nước và phạm vi ảnh hưởng. Những khu vực trọng yếu, nơi tập trung đông người, khu sản xuất… mà bị ngập kéo dài rõ ràng đã tác động đến đời sống xã hội và kinh tế càng nghiêm trọng. Khi đô thị bị ngập, giao thông sẽ đình trệ, người lao động không thể đến cơ quan, nhà máy phải tạm ngừng sản xuất, học sinh nghỉ học, thậm chí dịch vụ y tế và cứu hộ cũng bị ảnh hưởng, điều đó gây tổn thất cho nền kinh tế.
PV: Có ý kiến cho rằng, do “lỗi” của quy hoạch khiến nhiều đô thị loay hoay giải bài toán ngập úng sau mỗi trận mưa. Ông có nhận định gì về điều này?
TS, KTS Ngô Trung Hải: Để tìm ra nguyên nhân phải nhìn vào thực tế khách quan. Thời gian vừa qua, nhiều đô thị, cả miền núi và miền xuôi bị ngập rất nặng nề, phần lớn là do thiên tai cực đoan, khi lượng mưa vượt xa mọi kịch bản lịch sử, dự báo. Trong quy hoạch đô thị, chúng ta đã vận dụng khái niệm tần suất để thiết kế hệ thống thoát nước: Đô thị đặc biệt, đô thị loại 1 thường tính trên kịch bản an toàn với tần suất khoảng 100 năm (tức là, mức cực đại có thể xảy ra trung bình 1 lần/100 năm). Các đô thị loại thấp hơn có thể tính trên 50 năm, 10 năm… Việc tính toán phải dựa vào số liệu đo thực tế, tức là lấy năm cao nhất, lượng mưa lớn nhất trong giai đoạn đó để đặt làm chuẩn thiết kế.
Ở Hà Nội, kịch bản thiết kế từng lấy mốc lượng mưa khoảng 310 mm trong 48 giờ (với cường độ cao trong 4-5 giờ) để tính toán khả năng tiêu thoát của hệ thống cống, hồ điều tiết, trạm bơm và dòng chảy. Nhưng trận mưa ngày 30/9 vừa rồi đo được xấp xỉ 500 mm, gần gấp đôi mức cực đại lịch sử. Khi vượt qua “đỉnh” lịch sử như vậy, rõ ràng hệ thống cống thoát nước được thiết kế trên cơ sở số liệu cũ không còn đủ ứng phó.
Tuy nhiên hậu quả nặng nề của trận mưa lại chỉ ra, hạn chế là do thành phố Hà Nội chưa chuẩn bị tâm thế chuẩn bị để ứng phó. Đây thật sự là một lỗ hổng lớn, của rất nhiều đô thị trong cả nước, gồm cả đô thị miền núi hay ven biển.
Để tìm được nguyên nhân thật sự về nguyên nhân ngập úng, chúng ta phải "bắt đúng bệnh", cụ thể như việc làm đường tiêu thoát nước chưa chuẩn theo quy định, chưa đầu tư xong hạ tầng thoát nước, đường cống thoát nước bị tắc chưa được khơi thông. Ngoài ra, úng ngập còn do tốc độ đô thị hóa quá nhanh, ao hồ bị lấn chiếm, bị lấp… Thực tế, dù công tác quy hoạch có tốt bao nhiêu, nhưng các khâu khác như kế hoạch thực hiện, kinh phí, đồng bộ... mà thực hiện kém thì đô thị vẫn ngập úng.
PV: Thưa ông, để phát triển đô thị bền vững, giảm thiểu thiệt hại do ngập úng, triều cường, cần có giải pháp gì?
TS, KTS Ngô Trung Hải: Trong quy hoạch hạ tầng đô thị, cần cập nhật thông số quy hoạch/thiết kế theo kịch bản mới, không chỉ tần suất qua 100 năm mà xem xét các kịch bản đột biến do bối cảnh biến đổi khí hậu trên toàn cầu và dài hơn; cần bảo tồn và khôi phục hồ, ao, vùng đệm để tăng dung tích chứa nước; nâng cấp trạm bơm (kể cả các trạm bơm cứng và di động), cống và các kênh mương thoát nước...
Bên cạnh đó, các đô thị cần xây dựng bản đồ cảnh báo rủi ro bằng việc áp dụng khoa học-kỹ thuật, khoanh vùng nguy hiểm. Vấn đề này chúng ta hoàn toàn có thể làm được để cảnh báo sớm nhất cho người dân về mức độ ngập lụt thông qua hệ thống truyền thông, mạng xã hội và rất cần thiết qua tin nhắn điện thoại. Từ đó để người dân chuẩn bị trước có phương án ứng phó như chuẩn bị lương thực, nơi nào người dân sẽ phải di dời tài sản, tính mạng đến vùng an toàn. Lực lượng chức năng cần tổ chức huấn luyện lực lượng tại chỗ về phòng, chống thiên tai; trang bị xuồng, áo phao, vật tư cứu hộ ở cấp phường, xã. Việc này cần thiết có phương án, tập huấn và chuẩn bị phương tiện cần thiết tại chỗ ứng phó kịp thời.
PV: Thưa ông, với những đô thị lớn, nếu chẳng may xảy ra ngập lụt, việc di dời hàng triệu người dân, có lẽ là không khả thi?
TS, KTS Ngô Trung Hải: Trong tương lai, chắc chắn, thời tiết ngày càng khắc nghiệt, cho nên, các đô thị phải xác định việc sẽ sống chung với nước như thế nào, dựa trên triết lý nào để tồn tại và thích nghi. Với những đô thị lớn, chúng ta không thể di dời hàng triệu người, mà phải học cách sống cùng nước, như cách mà hàng chục triệu người dân vùng Đồng bằng sông Cửu Long đã làm suốt nhiều chục năm qua. Mỗi mùa nước lên, họ không xem đó là tai họa, mà là một phần của đời sống.
Từ triết lý đó, tôi nghĩ các đô thị hiện đại phải học cách “sống chung với ngập”. Khi không thể tránh được hoàn toàn rủi ro ngập lụt thì hãy tìm cách thích ứng một cách an toàn, thông minh. Tôi và các các chuyên gia của Bỉ, cộng sự đã nghiên cứu, phát triển một khái niệm có tên “Water Urbanism - mô hình đô thị nước". Khi chấp nhận triết lý “mô hình đô thị nước”, chúng ta sẽ thiết kế không gian, hạ tầng và xây dựng cuộc sống đô thị theo hướng linh hoạt chuyển động với Nước.
Trong mô hình này, thay vì chỉ tập trung vào các giải pháp đầu tư hạ tầng, hồ điều hòa hay trạm bơm, chúng ta hướng đến quy hoạch tích hợp, đa năng kết hợp giữa kỹ thuật và tự nhiên. Hệ thống hạ tầng phải “mềm dẻo” hơn, có khả năng hấp thu nước, chứa nước, thoát nước. Thí dụ, Hà Lan, Đan Mạch, Singapore… đã quy hoạch các không gian linh hoạt: Công viên, quảng trường, sân vận động, bãi đỗ xe có thể biến thành hồ chứa tạm khi mưa lớn. Những nơi này vừa là không gian công cộng, vừa là “không gian Mở” của đô thị khi thời tiết cực đoan xảy ra.
Trên thế giới còn phát triển thêm mô hình “Sponge City - Đô thị Bọt biển hoặc Đô thị Xốp". Hiểu một cách đơn giản, đây là đô thị có khả năng thấm, giữ và tiêu nước tự nhiên. “Bọt xốp”, có thể diễn đạt là, thành phố được thiết kế với nhiều “lỗ hở”. Công viên, quảng trường, sân vận động, bãi cỏ… bình thường là không gian sinh hoạt công cộng, nhưng khi mưa lớn, nước có thể thấm vào đất thông qua những chỗ không bị bê-tông bịt kín, giảm được ít nhất 15-20% áp lực nước đổ vào hệ thống cống. Từ đó, thời gian thoát nước cũng nhanh hơn rất nhiều. Ngược lại, nếu toàn bộ đô thị phủ kín bằng vật liệu không thấm, bê-tông, nước không có đường quay lại lòng đất, dẫn đến nước bị ùn ứ, dễ gây sụt lún đô thị do nước ngầm không được bù lại.
PV: Xin trân trọng cảm ơn ông!
“Cần thường xuyên, định kỳ nạo vét sông ngòi, hệ thống cống, miệng cống thoát nước, đầu tư nâng cấp và mở rộng khẩu độ hệ thống thoát nước ở những nơi dễ xảy ra ngập lụt”.
TS, KTS NGÔ TRUNG HẢI