Thử làm một phép tính đơn giản, 1 kg cam vắt được khoảng 500 ml nước cam và sẽ pha được khoảng 2 ly nước. Trong khi cùng số tiền 15.000 đồng sẽ chỉ mua được 1 ly nước cam pha sẵn bán ở vỉa hè. Lượng cam, chanh giảm giá này thực tế nếu không bán hết thì cũng… bỏ đi sau một thời gian ngắn. Và câu chuyện này cũng là phổ biến trong kinh doanh các mặt hàng thực phẩm tươi sống và dành cho tất cả, từ cửa hàng lớn cho đến tiểu thương ở chợ.
Một người có thâm niên kinh doanh trong lĩnh vực hàng tươi sống cho biết, tỷ lệ hàng bỏ đi do không bán được sẽ khác nhau tùy loại hình kinh doanh và từng chủng loại, nhưng nhìn chung là khá lớn và ảnh hưởng trực tiếp đến biên lợi nhuận. Đi sâu hơn, chênh lệch giữa giá mua vào - bán ra không phải là thấp, tức là lợi nhuận trên mỗi sản phẩm bán ra ở mức tương đối cao. Tuy nhiên, trừ đi phần chi phí do hao hụt khi vận chuyển và hàng hóa không bán được sẽ kéo lùi tổng lợi nhuận và thậm chí không có lãi hoặc thua lỗ. Vấn đề khó nhất cần giải ở đây là tính toán làm sao để cung - cầu có thể “khớp lệnh”, nhưng việc này không hề đơn giản vì các biến số thay đổi theo từng mốc thời gian.
Chẳng hạn, tại Bách Hóa Xanh, vào những ngày buổi chiều có thể có mưa to, thay vì bắt đầu giảm giá hàng tươi sống từ khoảng 16 giờ trở đi thì có thể đã giảm từ 13 giờ. Vì hệ thống này dự báo khu vực nào có mưa thì nhu cầu đi chợ bị ảnh hưởng, nên giảm giá có thể đẩy nhanh tiêu thụ hàng sớm hơn, dù rằng biện pháp này có thể khiến cho lợi nhuận suy giảm. Hơn nữa, hàng dù bán được hay không thì vẫn phải nhập nên giảm giá cũng bắt buộc phải thực hiện để “dọn kho” cho hàng hóa mới.
Từ những nguyên nhân nêu trên, có thể thấy rằng, lĩnh vực kinh doanh hàng tươi sống sẽ lại tiếp tục phân hóa theo hướng chỉ những "tay chơi" lớn, hoặc tiểu thương kinh doanh nhỏ gọn tại các chợ, các đơn vị không có lợi thế, tiềm lực đặc biệt sẽ bị đào thải. Với những tiểu thương ở chợ, mô hình kinh doanh linh hoạt sẽ phần nào tiết giảm chi phí, hư hao và lượng khách cũng tương đối ổn định. Còn với những hệ thống lớn sẽ có kênh tiêu thụ rộng khắp, vốn lớn để nhập hàng với chi phí thấp nhất để tối ưu hóa chi phí và quan trọng là hệ thống công nghệ đủ mạnh để dự báo cung-cầu.