Nhiều ngân hàng sẵn sàng xem xét khoản vay dựa trên dòng tiền tương lai của sản phẩm công nghệ.
Nhiều ngân hàng sẵn sàng xem xét khoản vay dựa trên dòng tiền tương lai của sản phẩm công nghệ.

Tín dụng cho tài sản trí tuệ

Khơi thông nguồn lực tài chính để thúc đẩy phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số đang ngày càng trở nên cấp thiết. Một trong những hướng đi là mở rộng sử dụng tài sản trí tuệ như sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, phần mềm, nhãn hiệu… làm tài sản bảo đảm cho các khoản vay.

Cục Sở hữu trí tuệ (Bộ Khoa học và Công nghệ) cho biết, chỉ riêng năm 2024, Cục đã cấp hơn 53.600 văn bằng, tiếp nhận gần 153.000 đơn đăng ký. Thực tế cho thấy, số lượng tài sản trí tuệ (TSTT) của doanh nghiệp, người dân dưới nhiều hình thức khác nhau ngày càng gia tăng. Tuy nhiên, việc TSTT được chấp nhận làm tài sản bảo đảm vẫn còn rất hạn chế.

Rào cản trong thế chấp tài sản trí tuệ

Là một doanh nghiệp công nghệ có uy tín tại Việt Nam, song Tập đoàn BKAV gặp rất nhiều khó khăn trong quá trình mở rộng quy mô do hầu như không thể huy động vốn từ ngân hàng.

Ông Nguyễn Tử Quảng, Chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm Tổng Giám đốc Tập đoàn đã chỉ ra một thực tế rất “vướng” của tập đoàn này cũng như nhiều doanh nghiệp công nghệ khác, đó là việc không thể định giá và bảo lãnh tín dụng.

“Một rào cản lớn khác đối với các doanh nghiệp công nghệ là việc tiếp cận vốn để mở rộng sản xuất quy mô lớn. Các doanh nghiệp công nghệ đã đầu tư số vốn rất lớn nhưng không được vay vốn vì tài sản là công nghệ (tài sản vô hình) không được định giá và bảo lãnh tín dụng”, ông Quảng chia sẻ.

Nhìn nhận về thực tế này, bà Vũ Ngọc Lan, Phó Vụ trưởng Pháp chế, Ngân hàng Nhà nước cho biết, TSTT tuy có giá trị lớn nhưng lại khó được sử dụng trong thế chấp bởi bốn nhóm rủi ro chính.

Thứ nhất, rủi ro định giá cao và biến động giá trị mạnh. Theo đó, giá trị TSTT phụ thuộc vào vòng đời công nghệ, mức độ ứng dụng và phản ứng của thị trường, do đó biến động không ngừng. TSTT có thể nhanh chóng lỗi thời chỉ sau một chu kỳ công nghệ. Nếu không có chuẩn mực định giá chung hoặc dữ liệu thị trường đầy đủ, cả doanh nghiệp và ngân hàng khó xác định được giá trị thế chấp hợp lý.

“Trong khi pháp luật cho phép các bên thỏa thuận định giá hoặc thuê đơn vị thẩm định, chuẩn mực thẩm định tài sản vô hình theo Thông tư 37/2024/TT-BTC lại chủ yếu dựa vào phương pháp so sánh, vốn khó áp dụng bởi TSTT luôn mang tính độc nhất”, bà Lan nói.

Thứ hai, đại diện NHNN cũng nhấn mạnh tới rủi ro thanh khoản thấp khi xử lý tài sản bảo đảm. TSTT gắn liền với hoạt động sản xuất, kinh doanh của chính doanh nghiệp sở hữu, nên rất khó bán lại trên thị trường khi phát sinh nợ xấu. Trong trường hợp doanh nghiệp mất khả năng thanh toán, ngân hàng gần như không thể nhanh chóng phát mại sáng chế hay phần mềm cho bên thứ ba. Không ít TSTT còn ở dạng đồng sở hữu, hoặc liên quan đến chuỗi giá trị từng phần, khiến việc định đoạt càng phức tạp và kéo dài.

Thứ ba, dù Bộ luật Dân sự và Nghị định 21/2021/NĐ-CP cho phép dùng quyền tài sản từ SHTT để bảo đảm nghĩa vụ, Luật Sở hữu trí tuệ hiện nay vẫn chưa có quy định đặc thù về đăng ký, xử lý tài sản khi thế chấp.

Hệ quả là cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm lúng túng, ngân hàng lo ngại tranh chấp, còn doanh nghiệp không biết liệu tài sản có được công nhận trong trường hợp xử lý nợ xấu. Khi doanh nghiệp hoạt động xuyên biên giới, sự khác biệt pháp lý giữa các quốc gia càng làm tăng mức độ rủi ro.

Thứ tư, ngân hàng hiện thiếu đội ngũ chuyên gia phân tích, định giá TSTT. Phải thuê đơn vị tư vấn độc lập khiến chi phí giao dịch tăng mạnh. Thêm vào đó, bất cân xứng thông tin khi doanh nghiệp nắm nhiều dữ liệu hơn bên cho vay khiến ngân hàng buộc phải kiểm tra chéo, làm phát sinh thêm chi phí và thời gian xử lý hồ sơ.

Chính vì vậy, dù pháp luật không cấm, TSTT vẫn “kém hấp dẫn” hơn nhiều so với bất động sản, máy móc, hàng tồn kho… Đây là những loại tài sản hữu hình có giá trị ổn định và thị trường mua bán rộng mở.

Trong thực tế, nhiều ngân hàng sẵn sàng xem xét khoản vay dựa trên dòng tiền tương lai của sản phẩm công nghệ, nhưng việc chấp nhận TSTT làm tài sản thế chấp lại là câu chuyện khác. Điều này được lý giải bởi việc thiếu dữ liệu, thiếu tiêu chuẩn và thiếu thị trường giao dịch minh bạch.

“Không giống bất động sản có bảng giá, hay vốn lưu động có hóa đơn, TSTT thiếu chuẩn dữ liệu đầu vào. Việt Nam hiện chưa có sàn giao dịch TSTT ở quy mô quốc gia hay cơ sở dữ liệu định giá mở cho ngân hàng tham chiếu. Điều này khiến ngân hàng khó đánh giá rủi ro”.

Mặc dù Luật Các tổ chức tín dụng cho phép ngân hàng và khách hàng tự thỏa thuận về biện pháp bảo đảm, nhưng chưa có quy định chi tiết để bảo đảm sự an toàn pháp lý khi xử lý tài sản. Nghị định 94/2025/NĐ-CP về sandbox ngân hàng cũng chưa đề cập việc thử nghiệm cho vay dựa trên TSTT.

Trong bối cảnh nợ xấu còn tiềm ẩn, nếu nhận TSTT là loại tài sản khó định giá và khó thanh khoản rủi ro sẽ chuyển trực tiếp sang bảng cân đối của ngân hàng. Do đó, “dễ làm trước, khó làm sau” vẫn là tâm lý phổ biến.

23-01-cac-san-pham-cong-nghe-thong-minh-duoc-nha-san-xuat-quan-tam-anh-bac-son.jpg
Các sản phẩm công nghệ thông minh được nhà sản xuất quan tâm. Ảnh: BẮC SƠN

Hạn chế rủi ro khi khơi thông dòng vốn cho TSTT

Thực tế cho thấy, nhiều quốc gia đã nhận thức sớm về vai trò của TSTT trong nền kinh tế số và xây dựng các mô hình tài chính đặc thù.

Tại Anh, tài sản vô hình chiếm 70 - 80% tổng giá trị doanh nghiệp, nhưng hệ thống tín dụng truyền thống từng chỉ tập trung vào tài sản hữu hình. Chính phủ Anh đã ban hành Chiến lược công nghiệp 2025, cam kết tháo gỡ rào cản cho các doanh nghiệp chuyên về TSTT, đồng thời xây dựng chương trình hỗ trợ ngân hàng đánh giá giá trị sáng chế, dữ liệu, phần mềm.

Một trong những thí dụ điển hình là EarthSense doanh nghiệp dùng giải pháp đo chất lượng không khí để vay 264.000 bảng Anh từ NatWest. Nhờ khung hỗ trợ định giá và bảo lãnh một phần rủi ro từ cơ quan nhà nước, ngân hàng mạnh dạn giải ngân.

Hay như Singapore đã thiết lập cơ chế bảo lãnh tín dụng 50 - 70% cho các khoản vay có bảo đảm bằng TSTT, xây dựng đội định giá chuyên nghiệp thuộc Cơ quan SHTT Singapore (IPOS). Đồng thời ban hành chuẩn định giá IP ValueLab giúp thống nhất phương pháp định giá.

Nhờ đó, việc thế chấp TSTT trở nên khả thi, minh bạch và tạo niềm tin cho hệ thống tín dụng.

Tại Việt Nam, Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Sở hữu trí tuệ mở đường cho việc dùng TSTT làm tài sản bảo đảm, nhưng theo các đại biểu Quốc hội, khung pháp lý còn thiếu rõ ràng nên khó áp dụng vào thực tế tín dụng.

Đại biểu Nguyễn Hoàng Bảo Trân (Đoàn đại biểu Quốc hội Thành phố Hồ Chí Minh) cho rằng, việc cho phép chủ sở hữu tự lập danh mục và tự định giá TSTT là bước tiến, nhưng lại “mở quá rộng” khi không yêu cầu chứng minh căn cứ, tiêu chuẩn hay phương pháp định giá tối thiểu. Đây là kẽ hở dễ bị lợi dụng để nâng khống giá trị, gây rủi ro cho giao dịch và khiến ngân hàng khó thẩm định hồ sơ.

Bà đề nghị bổ sung nguyên tắc giải trình, minh bạch hóa phương pháp định giá và làm rõ các điều kiện tiên quyết để TSTT có thể thế chấp, từ tiêu chuẩn định giá, hồ sơ xác lập quyền đến cơ chế xử lý tài sản khi phát sinh nợ xấu.

Như vậy rõ ràng, việc khơi thông dòng vốn cho các doanh nghiệp sở hữu TSTT không chỉ giúp mở rộng không gian tăng trưởng mà còn thúc đẩy sự dịch chuyển từ mô hình tăng trưởng dựa vào tài nguyên sang dựa vào tri thức.

Song để làm được điều đó, ngoài nỗ lực của hệ thống ngân hàng, cần có sự vào cuộc đồng bộ của các cơ quan quản lý, tổ chức định giá, doanh nghiệp và thị trường công nghệ. Khi rào cản được tháo gỡ, TSTT sẽ thật sự trở thành “vốn quý” giúp doanh nghiệp Việt Nam bứt phá trong kỷ nguyên kinh tế số.

Đại biểu Phạm Văn Hoà (Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Đồng Tháp) đề nghị chỉ cho phép ghi nhận TSTT vào sổ sách kế toán khi đã được cơ quan có thẩm quyền xác lập quyền sở hữu, nhằm tránh tình trạng “thổi phồng” giá trị để vay vốn, phát hành chứng khoán hay kêu gọi đầu tư.

Xem thêm