Trong bối cảnh công nghiệp hóa, đô thị hóa và tái cấu trúc mạnh mẽ không gian dân cư, di cư đang trở thành một hiện tượng nổi bật phản ánh động lực phát triển của xã hội Việt Nam. Với nhóm DTTS, chiếm gần 15% dân số và cư trú chủ yếu ở vùng núi, biên giới, hải đảo, di cư không chỉ là dịch chuyển nhân khẩu đơn thuần mà còn là sự thay đổi sinh kế, văn hóa và chiến lược thích ứng của cộng đồng.
Khi người dân tộc thiểu số di cư
Tuy nhiên, di cư của người DTTS vẫn chưa được nghiên cứu và thống kê đầy đủ trên bình diện quốc gia. Khoảng trống dữ liệu này khiến nhiều chính sách dân tộc và phát triển vùng chưa phản ánh đúng những đặc trưng về giới tính, học vấn, điều kiện kinh tế xã hội vốn ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng di chuyển và hội nhập của người DTTS.
Nghiên cứu của PGS, TS Trần Thị Minh Thi, Viện Thông tin Khoa học xã hội gần đây cho thấy, mức độ di cư giữa các nhóm dân tộc rất khác nhau. Khmer là nhóm có tỷ suất di cư cao nhất (52,6%), tập trung rời vùng Đồng bằng sông Cửu Long để tìm việc làm tại các trung tâm công nghiệp miền Đông Nam Bộ. Một số nhóm như Bru -Vân Kiều, Khơ Mú, Chăm và Tà Ôi cũng có tỷ lệ di cư lớn do biến động sinh kế nông nghiệp.
Trong khi đó, các dân tộc Tày, Nùng, H'Mông, Ê Đê hay Hoa có tỷ suất di cư trung bình nhưng lại chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số người DTTS di cư vì quy mô dân số đông. Ngược lại, các nhóm chủ yếu sống dựa vào đất đai và nông nghiệp ở miền núi phía bắc và Tây Nguyên như Thái, Mường, Dao, Ba Na hay Xơ Đăng có tỷ lệ di cư thấp hơn.
Lao động DTTS trong các khu công nghiệp dù ít thừa nhận bị phân biệt đối xử trực tiếp, nhưng trên thực tế vẫn chịu nhiều bất lợi mang tính cơ cấu. Các hình thức phân biệt diễn ra tinh vi qua việc giao những công việc giản đơn, ít cơ hội đào tạo và thăng tiến. Định kiến phổ biến như “chậm”, “không thạo máy móc”, “thiếu kỹ năng mềm” khiến tỷ lệ thăng tiến của họ chỉ khoảng 5%, thấp hơn nhiều so với lao động người Kinh.
Thêm vào đó, thiếu kỹ năng nghề và rào cản ngôn ngữ tiếp tục làm giảm khả năng cạnh tranh của lao động DTTS. Hầu hết chỉ được đào tạo ngắn hạn từ một đến hai tuần trước khi vào dây chuyền sản xuất và thường đảm nhận công việc không đòi hỏi kỹ thuật cao nên dễ bị thay thế. Dù phần lớn có trình độ THCS trở lên, nhiều người vẫn gặp khó khăn trong giao tiếp bằng tiếng phổ thông, đặc biệt trong giai đoạn đầu đi làm, khiến việc tiếp nhận thông tin, hồ sơ và quy trình công việc bị hạn chế.
Tuy nhiên, một số doanh nghiệp vẫn sẵn sàng tiếp nhận và tạo điều kiện cho lao động DTTS nếu họ chăm chỉ, đúng giờ và chịu khó học hỏi, bởi phần lớn công việc đơn giản, có thể đào tạo nhanh.
Dù mở ra cơ hội thu nhập tốt hơn, di cư cũng tạo nên những thách thức xã hội lớn đối với cộng đồng DTTS. Khoảng 78% lao động phải để con ở quê vì thiếu điều kiện học tập tại nơi đến. Nhiều trẻ có nguy cơ bỏ học cao do vắng sự giám sát của cha mẹ. Khoảng cách địa lý và lịch làm việc dày đặc khiến 33,7% số lao động đánh giá ảnh hưởng của việc di cư lên chăm sóc con cái là tiêu cực. Tương tự, gần một phần ba số người lao động khó chăm sóc cha mẹ già do phải xa nhà.
Phần lớn người di cư là lao động nghèo, ít kỹ năng, phải sống trong các khu tạm cư, xóm liều hoặc nhà trọ chật hẹp. Điều kiện sinh hoạt thiếu thốn khiến họ đối mặt với nhiều rủi ro về y tế.
Trong khi nhiều doanh nghiệp cho rằng di cư nông thôn miền núi mang lại lực lượng lao động giá rẻ, giúp tăng sức cạnh tranh, một số đô thị lớn lại đang áp dụng các quy định hộ khẩu hay yêu cầu trình độ để hạn chế người nhập cư vô tình đẩy nhóm yếu thế ra ngoài lề xã hội.
Với đồng bào DTTS, áp lực còn lớn hơn. Họ có xu hướng co cụm trong các nhóm đồng tộc để hỗ trợ nhau, nhưng điều này cũng khiến họ dễ bị tách biệt với đời sống đô thị và đối mặt nguy cơ phai nhạt văn hóa, thay đổi lối sống truyền thống.
Không chỉ kiểm soát mà phải tạo cơ hội
“Những biến động trong hoạt động di cư của người DTTS cho thấy nhu cầu cấp thiết phải hoàn thiện chính sách về nhà ở, giáo dục, an sinh và quản trị di cư bền vững, nhằm hỗ trợ đồng bào DTTS thích ứng tốt hơn trong bối cảnh phát triển mới”, PGS, TS Trần Thị Minh Thi nói.
Thay vì tư duy “ngăn dòng di cư”, các chính sách cần hướng sang “quản lý và hỗ trợ di cư an toàn”.
Trong đó ba nhóm giải pháp chính được nhấn mạnh. Trong đó cần phát triển nhà ở xã hội, cải thiện điều kiện sống cho người di cư theo hướng mở rộng các mô hình nhà ở giá rẻ, ký túc xá công nhân, khu dân cư vệ tinh; tăng đầu tư hạ tầng y tế, nước sạch, vệ sinh tại các khu đông lao động nhập cư. Bên cạnh đó là tạo sinh kế tại chỗ để giảm di cư bị động. Thay vì ép buộc di cư như giai đoạn trước năm 1990, cần phát triển các dự án kinh tế tại vùng nông thôn miền núi, nhất là vùng DTTS. Nhiều doanh nghiệp đã mở rộng phân xưởng về địa phương, tạo việc làm tại chỗ xu hướng cần được khuyến khích mạnh bằng ưu đãi và hỗ trợ hạ tầng.
Ở một góc nhìn khác, PGS, TS Bế Trung Anh, Ủy viên Thường trực Hội đồng dân tộc Quốc hội, khi di cư, người DTTS muốn tìm kiếm một chỗ dựa kinh tế mới. Vì vậy, để giải quyết thấu đáo vấn đề này, ông Trung Anh đặt câu hỏi có nên chăng thay đổi tư duy về công nghiệp hóa, hiện đại hóa đối với các khu vực địa bàn của người DTTS. Thay vì phát triển theo hướng này, việc lựa chọn phát triển các giá trị bản địa gắn với nhiều ngành dịch vụ, nông nghiệp sẽ mang lại lợi ích lâu dài và bền vững cho người dân vùng cao.
“Thay vì cố gắng tạo điều kiện cho con em học tập hướng theo công nghệ, kỹ thuật chẳng hạn như STEM… thì hãy để cho các em học được thêm nhiều kỹ năng mới đáp ứng nhu cầu sản xuất nông nghiệp ở địa phương hay kỹ năng bán hàng, làm dịch vụ để có thể khai thác được chính lợi thế, bản sắc văn hóa của vùng miền mà các em đang sống”.
Chỉ khi thế hệ tương lai có được nền tảng đó thì mới có thể bảo đảm được sinh kế lâu dài và bền vững. “Không phải ly hương lựa chọn một cuộc sống bấp bênh”.
PGS, TS Trần Thị Minh Thi cho rằng, cần một cách tiếp cận chính sách đa chiều và tinh tế hơn. Thay vì chỉ tập trung vào các giải pháp kinh tế đơn thuần, cần có một chiến lược toàn diện nhằm giải quyết các cơ chế tái sản xuất bất bình đẳng về không gian, nghề nghiệp và xã hội, đồng thời tăng cường sự tự chủ và khả năng chống chịu của người lao động DTTS, hướng tới một quá trình hội nhập công bằng và bền vững hơn.
PGS, TS Trần Thị Minh Thi phân tích: Dòng di cư DTTS đổ mạnh vào các cực tăng trưởng như Hà Nội, Bắc Ninh, Hải Phòng, Đồng Nai, Thành phố Hồ Chí Minh... nơi tỷ suất nhập cư cao gấp hàng chục, thậm chí hàng trăm lần so với các tỉnh miền núi. Đây chủ yếu là dòng di cư lao động, người dân rời vùng nghèo để làm việc trong nhà máy hoặc khu chế xuất.