Ngân hàng Agribank quản lý chặt chẽ rủi ro môi trường và xã hội trong hoạt động cấp tín dụng cho các dự án năng lượng tái tạo như điện gió. Ảnh: NAM ANH
Ngân hàng Agribank quản lý chặt chẽ rủi ro môi trường và xã hội trong hoạt động cấp tín dụng cho các dự án năng lượng tái tạo như điện gió. Ảnh: NAM ANH

Thể chế hóa tương lai năng lượng xanh

Nghị quyết số 70-NQ/TW của Bộ Chính trị đánh dấu bước chuyển mạnh trong thể chế hóa chuyển đổi năng lượng xanh. Đây không chỉ là định hướng phát triển ngành năng lượng, mà còn là cam kết của Việt Nam với mục tiêu Net Zero 2050.

Ngày 20/8/2025, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 70-NQ/TW về bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Nghị quyết xác định rõ quan điểm “Phát triển đồng bộ, hợp lý và đa dạng hóa các loại hình năng lượng; ưu tiên khai thác, sử dụng triệt để và hiệu quả các nguồn năng lượng tái tạo, năng lượng mới, năng lượng sạch. Từng bước chuyển đổi năng lượng đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước và cam kết quốc tế”.

Động lực mới cho ngành năng lượng

Tại Hội thảo “Chuyển đổi năng lượng xanh nhìn từ Nghị quyết 70 của Bộ Chính trị” tổ chức mới đây, ông Trần Hoài Trang, Phó Cục trưởng Điện lực và Năng lượng tái tạo, Bộ Công thương cho biết, trong giai đoạn 2026-2030, nhu cầu điện dự kiến sẽ tiếp tục tăng ở mức hai con số. Trong đó khả năng cung ứng phụ thuộc vào các nguồn điện chạy nền (nhiệt điện than, điện khí LNG) và nguồn năng lượng tái tạo, đặc biệt tại khu vực miền bắc. Việc ban hành Nghị quyết là hết sức cần thiết để tháo gỡ điểm nghẽn và tạo động lực mới cho ngành năng lượng.

Triển khai thực hiện Nghị quyết số 70-NQ/TW, Bộ Công thương đang xây dựng Dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về các cơ chế, chính sách tháo gỡ khó khăn trong phát triển năng lượng quốc gia giai đoạn 2026–2030, trình Quốc hội tại kỳ họp thứ 10 (tháng 10/2025). Bộ đề xuất các chính sách đặc thù nhằm thúc đẩy ngành năng lượng, bao gồm điều chỉnh quy hoạch điện và mạng lưới cấp điện theo hướng linh hoạt, cắt giảm thủ tục hành chính để rút ngắn thời gian đầu tư, giảm chi phí và đẩy nhanh tiến độ vận hành công trình. Đồng thời, bổ sung cơ chế riêng cho các dự án xây dựng - kinh doanh - chuyển giao (BOT) điện, tạo sức hút với nhà đầu tư và mở rộng khả năng huy động vốn từ các tổ chức tài chính quốc tế.

Ngoài ra, dự thảo cũng đưa ra cơ chế vượt trội cho các dự án nhiệt điện khí thiên nhiên hóa lỏng (LNG), đặc biệt về sản lượng điện tối thiểu dài hạn; ưu đãi đặc thù cho các dự án điện gió ngoài khơi được phê duyệt và vận hành sớm giai đoạn 2030-2035. Bên cạnh đó thúc đẩy cơ chế mua bán điện trực tiếp (DPPA) theo tinh thần Nghị quyết 70, khuyến khích khu vực tư nhân tham gia mạnh mẽ hơn vào phát triển năng lượng.

Ở góc độ doanh nghiệp, ông Nguyễn Tài Anh, Phó Tổng Giám đốc Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) cho biết, trong quá trình triển khai Nghị quyết 70, EVN xác định mục tiêu giảm 15-35% lượng phát thải khí nhà kính đến năm 2030 so với kịch bản thông thường. Sáu nhóm giải pháp trọng tâm được EVN đặt ra. Ưu tiên phát triển các nguồn điện sạch, nghiên cứu thay thế nhiên liệu hóa thạch bằng hydrogen xanh, ammonia xanh, biomass, hợp tác với Nhật Bản và Hàn Quốc để nâng cao hiệu suất phát điện. Cùng với đó, phát triển lưới điện thông minh, tăng năng lực truyền tải, tích hợp năng lượng tái tạo và hệ thống lưu trữ, xây dựng liên kết lưới điện khu vực, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của hệ thống.

Về khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo, EVN đẩy mạnh ứng dụng công nghệ số, Big Data (dữ liệu lớn), AI (trí tuệ nhân tạo) trong quản lý vận hành, tối ưu hóa sản xuất; nghiên cứu thu hồi, lưu giữ carbon và chuẩn bị tham gia thị trường tín chỉ carbon. Song song, EVN coi tiết kiệm năng lượng là mệnh lệnh thời đại, triển khai sâu rộng chương trình tiết kiệm điện, nâng cao nhận thức cộng đồng về chuyển đổi xanh.

Trong lĩnh vực nhân lực, EVN tập trung đào tạo đội ngũ kỹ sư, chuyên gia trong các lĩnh vực năng lượng mới, lưới điện thông minh, quản lý dự án năng lượng sạch; phối hợp với đối tác quốc tế, trong đó có Rosatom (Nga), để chuẩn bị cho các dự án điện hạt nhân tương lai.

“EVN đang rà soát, xây dựng kế hoạch huy động các nguồn vốn trong và ngoài nước, tận dụng nguồn tài chính xanh, cơ chế đối tác chuyển đổi năng lượng công bằng (JETP) và thu hút vốn đầu tư quốc tế nhằm giảm áp lực cho ngân sách nhà nước, bảo đảm nguồn lực thực hiện quá trình chuyển dịch năng lượng bền vững”. Những giải pháp này cho thấy EVN đang chuyển từ vai trò nhà sản xuất điện truyền thống sang doanh nghiệp tiên phong trong chuyển đổi năng lượng.

Theo Báo cáo Vietnam Energy Outlook 2024, để đạt mục tiêu Net Zero vào năm 2050, Việt Nam cần đầu tư thêm khoảng 8 -10 tỷ USD mỗi năm cho phát triển năng lượng tái tạo, hạ tầng và công nghệ lưu trữ.

Thách thức tài chính không nhỏ

Dù Việt Nam đang đứng trước “cửa sổ cơ hội” để bứt phá trong chuyển đổi năng lượng, song các chuyên gia cho rằng quá trình này vẫn đối mặt với nhiều thách thức lớn.

Cơ cấu nguồn điện hiện nay còn mất cân đối, phụ thuộc nhiều vào than và khí, trong khi hạ tầng truyền tải chưa theo kịp, công nghệ trong nước còn hạn chế và tới 80% thiết bị năng lượng tái tạo vẫn phải nhập khẩu. Sự phụ thuộc cao vào nhiên liệu hóa thạch khiến Việt Nam chịu rủi ro kép khi vừa chịu tác động từ biến động giá năng lượng toàn cầu, vừa chịu áp lực giảm phát thải để thực hiện cam kết Net Zero vào năm 2050 tại COP26.

PGS, TS Đặng Trần Thọ, Viện Công nghệ năng lượng, Đại học Bách khoa Hà Nội cho rằng, cần hoàn thiện thể chế, chính sách và quy hoạch tổng thể năng lượng quốc gia. Cụ thể, Việt Nam cần có Luật Năng lượng xanh và hiệu quả năng lượng (mới) tích hợp các cơ chế quản lý thị trường điện cạnh tranh, hợp đồng DPPA, thị trường carbon, và lưu trữ năng lượng.

Quy hoạch điện VIII (điều chỉnh 2024) nên được cập nhật định kỳ 3 - 5 năm, bổ sung cơ chế linh hoạt cho chuyển dịch nguồn và vùng. Đồng thời, cần thiết lập Cơ quan Điều phối chuyển đổi năng lượng quốc gia để giám sát thống nhất giữa quy hoạch, đầu tư và chính sách ưu đãi. Cùng với đó, cần chuyển từ cơ chế giá cố định sang cơ chế đấu thầu minh bạch, có trần giá và ưu tiên công nghệ nội địa hóa. Thiết lập hệ thống thuế carbon và tín chỉ carbon nội địa theo hướng khuyến khích doanh nghiệp tiết giảm phát thải và tái đầu tư vào công nghệ sạch. Các dự án hydrogen, pin lưu trữ và điện gió ngoài khơi nên được hưởng ưu đãi thuế nhập khẩu thiết bị, miễn thuế thu nhập doanh nghiệp trong 5 năm đầu và ưu tiên tiếp cận đất - hạ tầng.

Ở góc độ tín dụng, ông Vương Văn Quý, Phó Trưởng ban Chính sách tín dụng, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam (Agribank) cho biết, ngân hàng đang tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách nội bộ nhằm thúc đẩy tăng trưởng tín dụng xanh, đồng thời quản lý chặt chẽ rủi ro môi trường và xã hội trong hoạt động cấp tín dụng. Trong quá trình thẩm định, Agribank gắn việc đánh giá hiệu quả dự án với tác động môi trường, loại trừ các dự án gây ảnh hưởng nghiêm trọng, tập trung ưu tiên cho các dự án năng lượng tái tạo như điện gió và điện mặt trời.

Agribank đang nghiên cứu phát triển thêm các sản phẩm, dịch vụ xanh đáp ứng tiêu chuẩn trong nước và quốc tế, hướng vào lĩnh vực năng lượng tái tạo, công nghệ cao và các nguồn năng lượng mới. Ngân hàng cũng đẩy mạnh hợp tác với các tổ chức tài chính quốc tế để triển khai dự án quy mô lớn, tăng cường năng lực thích ứng biến đổi khí hậu thông qua các mô hình năng lượng bền vững.

Để huy động nguồn vốn xã hội và phát triển, tài chính xanh được xem là nền tảng quan trọng để hệ thống ngân hàng, Agribank kiến nghị ban hành quy định thống nhất về tín dụng xanh và trái phiếu xanh, đồng thời xây dựng bộ tiêu chí cụ thể cho quản lý rủi ro môi trường - xã hội, nhằm bảo đảm tính minh bạch và hiệu quả trong đầu tư xanh.

Bên cạnh khung pháp lý, cần có cơ chế khuyến khích như ưu đãi hệ số rủi ro, giảm chi phí vốn cho dự án năng lượng xanh, xếp hạng các tổ chức tín dụng theo tiêu chí “tín dụng xanh”, và mở rộng khả năng tiếp cận nguồn vốn quốc tế, quỹ khí hậu hoặc tái cấp vốn từ Ngân hàng Nhà nước. Ngoài ra, cần chuẩn hóa dữ liệu và minh bạch thông tin, xây dựng cơ sở dữ liệu về phát thải và tín dụng xanh, ứng dụng công nghệ số để giám sát hiệu quả các dự án năng lượng tái tạo.

Thể chế hóa tương lai năng lượng xanh không chỉ là câu chuyện của ngành điện, mà là phép thử năng lực kiến tạo phát triển bền vững của cả nền kinh tế.

Xem thêm