Một vài năm sau ngày hòa bình, có hai dòng lao động từ phía bắc lên với vùng đất đại ngàn phía tây Tổ quốc. Dòng thứ nhất là di dân theo kế hoạch xây dựng các vùng kinh tế mới, tạo nên những vùng quê trù phú trong tương lai và thực hiện cuộc sắp xếp dân cư theo chiến lược bố phòng quốc gia. Dòng thứ hai là lớp cán bộ tăng cường và thanh niên bổ sung nguồn nhân lực cho các nông, lâm trường quốc doanh.
1. Người anh con dì ruột của tôi vào Tây Nguyên theo dòng thứ hai, từ năm 1983, anh trở thành công nhân của Nông trường Đức Lập (Đắk Lắk). Con em của một gia đình làm ruộng giữa đất miền Trung lam lũ, được mang trên mình mầu áo xanh nông trường, những ngày tháng tuổi trẻ của anh tràn đầy nhựa sống.
Những đêm dưới ánh điện của khu tập thể, anh đã viết về cho tôi, cậu em đang là học sinh phổ thông, rất nhiều bức thư. Thư anh tôi mô tả không gian Nông trường Đức Lập nơi anh làm việc rất giàu hình ảnh. Đó là những buổi cày đất trong sương sớm; những hôm gieo trồng quên cả ăn ngủ; những buổi thu hoạch cà-phê chín rộ mà đêm tối về vẫn rộn rã tiếng cười. Anh cũng kể về những buổi họp hành sôi nổi bàn chuyện sản xuất ở từng tổ, từng đội; những ngày chủ nhật giao lưu thể thao; những đêm biểu diễn văn nghệ và đội chiếu phim thì phục vụ mỗi tuần một buổi.
Thư anh không hoàn toàn chỉ nói chuyện vui. Tôi đã nhớ anh rất buồn khi kể tôi nghe chuyện những đồng nghiệp thân thương của anh đã mãi mãi nằm xuống mảnh đất Tây Nguyên trong những cuộc thảm sát bất ngờ của bọn Fulro.
Trong cái đầu ưa tưởng tượng, những lá thư với những câu chuyện sinh động của người anh họ đã gieo vào tôi một thứ cảm xúc khá gần gũi với nơi chốn nông trường ở một khung trời xa xôi. Có lúc tôi đã ước, học xong phổ thông là theo anh vào Tây Nguyên, xin được khoác màu áo xanh công nhân để được làm việc trong nhịp sống công nghiệp; được tham gia văn nghệ, thể thao, làm báo tường, báo liếp đội, tổ…

2. Rồi tôi trưởng thành và cũng vào Tây Nguyên, nhưng không làm công nhân nông trường như từng mơ ước mà được đến với rất nhiều nông trường để tìm hiểu, viết báo. Hồi đó, đi đến vùng đất nào ở xứ đại ngàn cũng gặp hình ảnh nông trường quốc doanh. Tôi đã đến những nông trường chăn nuôi bò sữa, bò thịt và gia cầm; những nông trường dâu tằm tơ; những nông trường cà-phê, chè; những nông trường trồng sắn, ngô, khoai; cây ăn quả và lúa. Tên gọi các nông trường hồi đó cũng gợi cho mọi người rất nhiều ý nghĩa; một là xuất phát từ tên các địa danh như Phú Sơn, Đức Lập, Konhinda, Cầu Đất…; hai là những tên gọi mang ý chí tiến công cách mạng, như Quyết Thắng, Tiến Lên, Thắng Lợi, Tháng Tám hay 2-9, 1-5, 30-4…
Lịch sử nông trường quốc doanh ở Tây Nguyên hình thành từ các nguồn như kế thừa những đồn điền cũ; thành lập mới có sự hỗ trợ tích cực của cán bộ tăng cường từ miền bắc vào hoặc mới hoàn toàn cả bộ máy lẫn tư liệu sản xuất. Chỉ có một nông trường khá đặc biệt, nó được phát triển lên từ một cơ sở hậu cần thời kháng chiến, là Nông trường Hà Lâm ở miền đất từng là chiến khu bên dòng Đồng Nai.
Trên các tài liệu về lịch sử canh nông của tỉnh Lâm Đồng viết rằng, trong chương trình khai thác thuộc địa, từ năm 1925 đến 1939, Khâm sứ Trung kỳ đã ráo riết triển khai thực hiện nghị định về việc chuyển nhượng đất ruộng rẫy của đồng bào thiểu số, đó là cách hợp thức hóa việc chiếm đất của người Thượng trên cao nguyên Trung phần. Cùng với việc đất đai của đồng bào bị cướp trắng là 500 nghìn ha đồn điền, nông trại của các ông chủ Pháp và Nam Triều cũng ra đời từ thời điểm đó. Đến 1954, ở Đồng Nai Thượng đã có tới 409 đồn điền lớn nhỏ, phần lớn là trồng chè và cà-phê. Cây chè, cà-phê càng chứng tỏ được sự thích nghi với môi trường sinh thái ở vùng đất mới này. Do vậy, Nha Khảo sát canh nông Đông Dương đã có nhiều nghiên cứu và hỗ trợ cho việc phát triển diện tích trồng chè, cà-phê trên xứ sở mà nhà bác học người Pháp A.Yersin có công “khai phá”. Mất đất, người dân bản xứ trở thành những người nông phu rẻ mạt trong các đồn điền. Với học phí trả bằng mồ hôi, nước mắt và cả máu xương, họ đã học từ các ông chủ của mình nghề canh tác và chế biến cây công nghiệp và cũng chính các đồn điền này là cơ sở quan trọng của các nông trường quốc doanh sau này.
Hồi đó, khi về thăm các nông trường quốc doanh phát triển trên nền tảng đồn điền của người Pháp như Minh Rồng, Cầu Đất…, tôi thường lội trong những vườn chè cổ thụ và lần theo những dòng mộ chí của các ông bà Tây đã từng làm chủ và gửi lại thân xác giữa miền cao nguyên. Tôi đã từng đi tìm dấu tích những ngôi nhà nguyện Công giáo với những thập giá xiêu vẹo và những biệt thự hoang phế mà người Pháp bỏ lại giữa rừng của các trang trại bò, trang trại cà-phê, dược liệu ở vùng Cam Ly-Đà Lạt. Ở đâu đó, trên các luống cày nông trường ở vùng Bảo Lộc, người ta còn nhặt được những cây súng trường mútcơtông, những lưỡi gươm thép, những chiếc roi da hay cây batoong mà bọn cai thực dân từng dùng để truy lùng, tra tấn những người nông phu chống đối, bỏ trốn…
3. Hình ảnh nông trường quốc doanh ở khắp vùng Tây Nguyên đều có nét giống nhau. Cũng như Nông trường Đức Lập của anh họ tôi, Phú Sơn ở vùng Lâm Hà (Lâm Đồng) là một nông trường kế thừa từ cơ sở của một ông chủ tư bản cũ. Ngay sau ngày thống nhất, nông trường là cơ sở quân quản được chuyển qua dân sự. Năm 1976-1977, Nhà nước có chủ trương đưa thanh niên miền bắc vào cùng thanh niên Đà Lạt, TP Hồ Chí Minh và cả Quảng Trị về đây dựng Nông trường Phú Sơn. Ông Nguyễn Thiện là giám đốc đầu tiên, rồi sau đó là ông Hồ Nhã từ Nông trường Bãi Phủ (Nghệ An) được tăng cường vào thay thế ông Thiện. Những năm tháng đó, ông Thiện, ông Nhã cùng các cộng sự đã trăn trở, nghĩ suy để viết nên chương mới cho Nông trường Phú Sơn. Từ tiếp quản ba đồn điền cũ và khai hoang, mở rộng diện tích, quy mô nông trường thời đó rất lớn, với ba cơ sở sản xuất các loại sản phẩm như chè, cà-phê, lúa, các loại hoa màu, cây ăn quả, chăn nuôi bò sữa, bò thịt tuyển giống từ Mộc Châu vào. Đội ngũ có hơn 1.000 lao động. Thời cơ chế cũ, họ đã cố gắng vận hành hoạt động sản xuất, kinh doanh để mang lại hiệu quả cao nhất có thể; họ phải lo từ cơm áo gạo tiền đến đời sống tinh thần cho hàng nghìn con người trong cái cơ chế chật hẹp và dần bộc lộ sự khiếm khuyết, lỗi thời.
Ông Phạm Ngọc Thiệp, Giám đốc Nông trường Phú Sơn giai đoạn 1985-1990, hồi tưởng: “Với quyết tâm và nhiệt huyết, thời đó, chúng tôi đã cố gắng tìm kiếm nhiều giải pháp để nâng cao chất lượng, hiệu quả kinh tế và lo cuộc sống cho đội ngũ công nhân. Nuôi bò sữa không thành công, chuyển qua nuôi bò thịt. Phú Sơn cũng tiên phong trồng thử nghiệm 7 ha
cà-phê đầu tiên và vài năm sau tăng lên 70 ha… Thành quả rất đáng ghi nhận là, từ vườn cà-phê ban đầu của Nông trường Phú Sơn đã là một nhân tố quan trọng tạo nên sự lan tỏa dần diện tích cà-phê ra toàn huyện Lâm Hà thời kỳ đó. Cây cà-phê đã trở thành cây trồng chủ lực, mang lại sự giàu có cho cư dân huyện này cũng như toàn vùng Tây Nguyên chỉ vài năm sau đó…
Ông Phạm Ngọc Thiệp: “Ngày đầu không có giống, cán bộ nông trường phải xuống Bảo Lộc tìm nhặt những cây cà-phê mọc hoang trong rừng do người Pháp bỏ lại. Chè đen xuất khẩu sang Liên Xô và Đông Âu cũng góp phần cho hiệu quả sản xuất của nông trường…”.
(Còn nữa)