1. Nhìn chung các hội thảo khác bàn nhiều hơn về sáng tác, ngay cả dịch thuật cũng thưa thoáng. Cho nên “may mắn” có hội thảo khoa học “LLPB văn học Việt Nam từ đổi mới 1986 đến nay: Thực trạng và định hướng phát triển" vừa được Viện Văn học tổ chức để các chuyên gia LLPB dành thời gian băn khoăn và kỳ vọng cho dòng chảy học thuật văn chương, vốn được xác định là một nền tảng rất quan trọng của văn học nước nhà.
Với những đúc kết công phu, các chuyên gia có thâm niên đưa ra những nhận định khá sáng rõ và không ít thú vị cho thấy, hoạt động LLPB văn học dù tưởng chừng thâm sâu, mô phạm và… “khô khan”, không tung tẩy, phóng túng như sáng tác nhưng cũng đã trải nhiều bến bờ, thời đoạn, thăng trầm. PGS, TS Trịnh Bá Đĩnh, Hội đồng LLPB - Hội Nhà văn Việt Nam chia ra ba chặng phê bình mà theo ông, phải tính từ đầu những năm 80 với phê bình chủ thể; từ khoảng giữa những năm 90 với phê bình học thuật và giai đoạn 3 những năm gần đây với phê bình văn hóa. Có điều, hơi đáng muộn phiền khi cùng với sự đua nở về trường phái, mở rộng về phương pháp với nhiều thành quả đáng ghi nhận, thì phê bình học thuật ngày càng “lu mờ”, ít người đọc. Khoảng năm 1986, có công trình in đến 8.000 cuốn, khoảng đầu những năm 2000, có công trình chỉ in khoảng 2.000 cuốn, và đến thời điểm hiện tại thì người ta thường chỉ in 200-300 cuốn, PGS, TS Trịnh Bá Đĩnh thí dụ.
GS Phong Lê, nguyên Viện trưởng Văn học cũng đưa ra nghịch lý khi nhìn lại khoảng ba thập kỷ qua và đặt câu hỏi: Phê bình chuyên nghiệp là ai, ở đâu, thật khó tìm với lẻ tẻ dăm chục người ở một số viện, nhà trường. Tính chuyên nghiệp của phê bình là đáng hồ nghi. Trong khi nhiều lĩnh vực khác ngày càng chuyên nghiệp thì phê bình lại ngược lại - GS so sánh và lấy làm tiếc khi nhiều luận văn ở các trường cập nhật đời sống văn học đương đại nhưng rồi lại “ngủ yên” trong kho.
2. Tuy nhiên không bi quan, mặc dù chứng kiến cảnh không ít bạn trẻ có thể bỏ vài triệu đồng mua vé xem ca nhạc nhưng không mua đọc một cuốn sách nói chung chứ chưa nói đến sách phê bình, các chuyên gia “đọc” ra nhu cầu thay đổi cũng như đề xuất về những thay đổi cho phê bình văn học thích ứng với đời sống đương đại. Từ nhận định của GS Phong Lê về sự bùng nổ của giải trí, internet, mạng xã hội và kinh tế thị trường thì phê bình văn học cũng phải chịu tác động, TS Hà Thanh Vân, Trung tâm Xúc tiến Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam, đưa ra nhiều đề xuất thay đổi, khi mà phê bình truyền thông bùng nổ, phê bình mạng xã hội phát triển, phê bình kỹ thuật số xuất hiện gồm cả sự tham gia phê bình của công chúng; cùng với các hiện tượng tự phê bình, tự tiếp thị của nhà văn… Theo TS Hà Thanh Vân, đây thật sự là thách thức cho việc dung hòa tính học thuật và tính đại chúng. Do đó cần có sự thay đổi tư duy từ phán xét sang đối thoại, từ đóng kín sang liên ngành và từ độc quyền sang chia sẻ. “Mạng xã hội giúp nhà văn, nhà phê bình đến gần hơn với công chúng. Nhiều người chưa hiểu hết sức mạnh của chuyển đổi số, mạng xã hội, internet. Phê bình không thể chậm chân”, TS Hà Thanh Vân nhấn mạnh.
Mong mỏi chung của nhiều chuyên gia là dù thế nào cũng cần nâng cao hơn vị thế của hoạt động LLPB trong đời sống văn học và rộng hơn là đời sống văn hóa. Bởi dù thích ứng thế nào thì vẫn luôn cần duy trì và tăng cường tính khoa học của LLPB. Có thể các hoạt động truyền thông sôi nổi bằng nhiều hình thức giúp người đọc đến gần hơn với tác phẩm văn học, nhưng sự dễ dãi, những chiêu PR và sự suy giảm của đạo đức nghề nghiệp sẽ dễ gây ảnh hưởng xấu đến năng lực đọc, hiểu, cảm nhận văn chương của công chúng phổ thông. Và nếu không chỉ rõ những cái hay, cái dở của các sáng tác văn học, thì hoạt động LLPB dễ đánh mất vai trò ghi nhận, đồng hành, gợi mở cho sáng tạo. Chính các nhà LLPB cũng tự nhắc nhở, cảnh báo trong giới nghề của mình về quan điểm làm nghề, ý thức trách nhiệm, phương pháp nghiên cứu và áp dụng các lý thuyết từ nước ngoài. Như PGS, TS Phan Trọng Thưởng, nguyên Phó Viện trưởng Văn học cảm nhận thì trong phê bình có sự loạn chuẩn, lệch chuẩn. Còn PGS, TS Nguyễn Văn Dân, nguyên Phó Viện trưởng Thông tin Khoa học xã hội, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam thì cảm thấy một số tác giả quá say mê lý thuyết, gây cảm giác nghiên cứu vì nghiên cứu chứ không phải nghiên cứu vì văn học…
Dù đã đón nhận mấy chục tham luận, ý kiến, nhưng còn nhiều điều đáng bàn nữa từ hội thảo vừa diễn ra. Trong đó, không thể bỏ qua câu chuyện tiếp tục xây dựng chính sách, cơ chế cho hoạt động nghiên cứu, công tác LLPB. Dường như nhiều câu hỏi còn đang ngổn ngang về chế độ đãi ngộ các nhà LLPB, về diễn đàn báo chí-truyền thông để lan tỏa các tác phẩm và giá trị của LLPB, về đòi hỏi với chính các đơn vị nghiên cứu và giảng dạy lĩnh vực văn học trong việc chủ động đưa các công trình nghiên cứu, tiếng nói phê bình của mình thấm sâu hơn vào giới văn chương và xã hội.