Theo số liệu của Cục Thống kê (Bộ Tài chính), chỉ số giá tiêu dùng (CPI) bình quân sáu tháng đầu năm tăng 3,27% so cùng kỳ năm trước, cao hơn mức trung bình giai đoạn 2015-2024 là 2,81%. Lạm phát cơ bản cũng ở mức 3,16%.
Áp lực không quá lớn
Nhìn nhận kết quả này, TS Nguyễn Đức Độ, Phó Viện trưởng Kinh tế - Tài chính (Bộ Tài chính) cho biết, dù cao hơn mức trung bình của giai đoạn 2015-2024, song áp lực lạm phát trong sáu tháng đầu năm không quá lớn. Áp lực chính đến từ nhóm dịch vụ y tế và nhóm nhà ở, điện nước, chất đốt và vật liệu xây dựng là những yếu tố thiết yếu gắn chặt với đời sống dân sinh. Bù lại, giá hàng hóa cơ bản trên thế giới có xu hướng giảm, chỉ số giá hàng hóa nhập khẩu giảm 1,57%, qua đó góp phần kiềm chế lạm phát.
Nửa cuối năm 2025, ông Độ đánh giá áp lực lạm phát "không quá lớn" nhờ nhiều yếu tố kiềm chế lạm phát. Việc xuất khẩu gặp nhiều thách thức tại thị trường Mỹ (do thuế quan) cũng như tại các thị trường khác do tăng trưởng kinh tế thấp sẽ khiến nguồn cung hàng hóa trong nước dồi dào hơn, giúp giảm áp lực lạm phát. Cùng với đó, giá các hàng hóa cơ bản đang có xu hướng giảm trong bối cảnh kinh tế toàn cầu được dự báo tăng trưởng chậm lại đáng kể do thuế quan. Những thách thức đối với tăng trưởng của Việt Nam và thế giới cũng sẽ đồng thời cản đà tăng của giá cả trong nửa cuối năm 2025.
Với giả định CPI trong sáu tháng cuối sẽ tăng trung bình 0,27%/tháng, tương đương mức tăng trung bình trong sáu tháng cuối năm của giai đoạn 2015-2024, lạm phát trung bình cả năm 2025 được dự báo ở mức 3,4%. Trong trường hợp căng thẳng thương mại giữa Mỹ và các đối tác lớn kéo dài và dẫn đến suy thoái kinh tế toàn cầu, giá các hàng hóa cơ bản giảm mạnh, lạm phát trung bình cả năm 2025 có thể chỉ ở mức 3%. "Năm 2025 nhiều khả năng sẽ là năm thứ 11 liên tiếp Việt Nam kiểm soát thành công lạm phát ở mức dưới 4%".
Các yếu tố khiến giá cả tăng
Tuy vậy, ông Độ cũng lưu ý các áp lực từ tỷ giá và tăng trưởng tín dụng đến lạm phát cần được theo dõi sát sao để có chính sách kiểm soát lạm phát phù hợp. Cụ thể, với định hướng tăng trưởng tín dụng trong cả năm 2025 là 16%, đồng thời Chính phủ yêu cầu Ngân hàng Nhà nước (NHNN) duy trì mặt bằng lãi suất thấp để hỗ trợ tăng trưởng GDP đạt 8% năm 2025. Nhiều khả năng nguồn cung tiền sẽ tiếp tục tăng nhanh hơn tốc độ tăng GDP danh nghĩa và gây sức ép lên giá cả thời gian tới.
Chính sách thuế quan của Mỹ vẫn còn nhiều bất định, đồng thời mức thuế nhập khẩu hàng hóa từ Việt Nam cao hơn so với trước đây, xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ sẽ gặp nhiều thách thức trong nửa cuối năm 2025 và gây sức ép lên tỷ giá.
Còn theo bà Nguyễn Thu Oanh, Trưởng ban Thống kê dịch vụ và Giá, Cục Thống kê, trong ngắn hạn và trung hạn, lạm phát toàn cầu vẫn có khả năng chịu áp lực cao, dù đã giảm so với giai đoạn cao điểm 2022-2023. Cụ thể, giá hàng hóa toàn cầu vẫn biến động mạnh, giá dầu có xu hướng tăng trở lại do bất ổn địa chính trị và OPEC+ tiếp tục cắt giảm sản lượng; giá vận chuyển đang tăng cao do ảnh hưởng của các cuộc xung đột. Giá lương thực có khả năng chịu ảnh hưởng bởi biến đổi khí hậu. Chi phí sản xuất gia tăng do xu hướng chuyển dịch chuỗi cung ứng, chính sách sản xuất tại chỗ làm chi phí sản xuất cao hơn.
Việt Nam phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu nguyên, nhiên vật liệu nên biến động của giá hàng hóa thế giới sẽ ảnh hưởng đến chi phí, giá thành, tạo áp lực đối với sản xuất của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, USD tăng giá càng làm tăng chi phí nhập khẩu, gây sức ép lên mặt bằng giá hàng hóa ở trong nước.
Ngoài ra, các chương trình hỗ trợ phục hồi, thúc đẩy giải ngân đầu tư công, dịch vụ du lịch phát triển mạnh… cũng có thể gây áp lực lên mặt bằng giá. NHNN đã giữ lãi suất điều hành thấp để hỗ trợ phục hồi kinh tế. Nên nếu tín dụng tăng mạnh trở lại, có thể kích thích cầu tiêu dùng và đầu tư, tạo áp lực cầu kéo.
Kiểm soát lạm phát đạt mục tiêu
Trước nhiều ẩn số có thể gây đột biến, các chuyên gia đều cho rằng, điều hành chính sách vĩ mô trong thời gian tới cần được phối hợp nhịp nhàng và chủ động hơn bao giờ hết.
Bà Nguyễn Thu Oanh cho rằng, Chính phủ, các bộ, ngành và địa phương theo dõi chặt chẽ diễn biến giá cả, lạm phát trên thế giới, kịp thời cảnh báo các nguy cơ ảnh hưởng đến giá cả, lạm phát của Việt Nam để có các biện pháp ứng phó phù hợp nhằm bảo đảm nguồn cung, bình ổn giá trong nước.
Các bộ, ngành, địa phương cần theo dõi sát diễn biến giá cả của các mặt hàng thiết yếu (lương thực, thực phẩm, thịt lợn, xăng dầu, gas...) để có giải pháp điều hành phù hợp và chủ động chuẩn bị các nguồn hàng vào dịp lễ nhằm hạn chế tăng giá. Đồng thời cần có các biện pháp kiểm soát, bình ổn giá, xử lý nghiêm các vi phạm, tránh để xảy ra tăng giá bất hợp lý, tin thất thiệt gây bất ổn thị trường. Điều hành linh hoạt đồng bộ các công cụ chính sách tiền tệ nhằm kiểm soát lạm phát theo mục tiêu đề ra, đồng thời góp phần hỗ trợ tháo gỡ khó khăn trong sản xuất, kinh doanh và đời sống người dân.
TS Nguyễn Quốc Việt, nguyên Phó Viện trưởng Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR) cho rằng, những tháng đầu năm, Việt Nam kiềm chế được lạm phát tương đối tốt nhờ giá năng lượng thế giới giảm giúp giá xăng dầu trong nước giảm. Nếu giá dầu thế giới biến động mạnh sẽ ảnh hưởng đến giá xăng dầu trong nước, dẫn đến giá cả đầu vào trong sản xuất phục vụ trong nước và xuất khẩu tăng. Các dịch vụ quốc tế, đặc biệt là vận tải cũng đang đối mặt với làn sóng tăng giá. Vì vậy, về lâu dài, Việt Nam cần đa dạng hóa chuỗi cung ứng, tránh phụ thuộc một số quốc gia hoặc tuyến vận tải nhất định. Đồng thời duy trì ổn định giá năng lượng trong nước thông qua các chính sách thuế linh hoạt.
Các chuyên gia khẳng định, để giữ ổn định kinh tế vĩ mô, bài toán không chỉ là điều hành chính sách tiền tệ khéo léo, mà còn phải bảo đảm tính chủ động trong nguồn cung, ổn định tâm lý thị trường và tăng sức chống chịu của nền kinh tế trước các cú sốc từ bên ngoài.
"Cần có bộ đệm tài khóa để hỗ trợ các nhóm yếu thế khi giá cả tăng mạnh. Quan trọng nhất là duy trì ổn định vĩ mô và phối hợp chặt chẽ chính sách tài khóa - tiền tệ để vừa kiểm soát lạm phát vừa thúc đẩy tăng trưởng", TS Nguyễn Quốc Việt nhận định.