Giao dịch tại MB bank. Ảnh: NAM ANH
Giao dịch tại MB bank. Ảnh: NAM ANH

Trao “đòn bẩy” vốn cho nhiệm vụ tái cơ cấu ngân hàng

Chính sách giảm 50% tỷ lệ dự trữ bắt buộc cho bốn ngân hàng đang thực hiện chuyển giao bắt buộc của Ngân hàng Nhà nước được giới chuyên gia đánh giá là “cú huých” thanh khoản mang tính chiến lược. Không chỉ giúp giải phóng hàng chục nghìn tỷ đồng vốn khả dụng, nó còn mở rộng dư địa tín dụng, tạo tác động lan tỏa tới nền kinh tế.

Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) vừa ban hành Thông tư 23 sửa đổi Thông tư 30 về quy định dự trữ bắt buộc, áp dụng cho các tổ chức tín dụng và chi nhánh ngân hàng nước ngoài, có hiệu lực từ ngày 1/10. Theo đó, các tổ chức tín dụng nhận chuyển giao bắt buộc ngân hàng đang trong diện kiểm soát đặc biệt sẽ được giảm 50% tỷ lệ dự trữ bắt buộc, căn cứ theo phương án đã được phê duyệt.

Các đơn vị tham gia quản trị, điều hành hoặc hỗ trợ tài chính cho ngân hàng thuộc diện này cũng được hưởng ưu đãi tương tự. Hiện Vietcombank, HDBank, MB và VPBank là bốn ngân hàng đang thực hiện chuyển giao bắt buộc và sẽ được áp dụng mức giảm một nửa tỷ lệ dự trữ bắt buộc.

“Giải phóng” hàng chục nghìn tỷ đồng

Dự trữ bắt buộc là khoản tiền mà các tổ chức tín dụng buộc phải gửi tại NHNN nhằm bảo đảm an toàn hệ thống và kiểm soát thanh khoản. Việc giảm một nửa tỷ lệ dự trữ bắt buộc sẽ giúp gia tăng nguồn vốn khả dụng cho hoạt động cho vay và đầu tư, từ đó cải thiện đáng kể khả năng sinh lời cho các ngân hàng liên quan việc chuyển giao bắt buộc.

Phân tích rõ hơn về lợi ích mà các ngân hàng được hưởng nhờ quyết định mới của NHNN, PGS, TS Nguyễn Hữu Huân, Giảng viên cao cấp Trường đại học Kinh tế TP Hồ Chí Minh dẫn thí dụ, nếu tỷ lệ dự trữ bắt buộc giảm từ 3% xuống 1,5%, thì với mỗi 100 đồng huy động, ngân hàng chỉ cần giữ lại 1,5 đồng thay vì 3 đồng như trước. Tỷ lệ cho vay có thể lên tới 98,5 đồng, cao hơn so với mức 97 đồng trước đây.

Chênh lệch 1,5 đồng tuy không lớn trên từng khoản huy động, nhưng với quy mô vốn khổng lồ của các ngân hàng lớn, đặc biệt là bốn ngân hàng đang nắm tới 25% tổng dư nợ toàn hệ thống, tác động tích lũy là rất đáng kể.

Cũng theo ông Huân, khi khả năng cho vay được mở rộng, lượng tiền cơ sở trong nền kinh tế gia tăng. Thông qua cơ chế nhân tiền, sẽ tạo hiệu ứng khuếch đại lượng tiền lưu thông, thúc đẩy mạnh mẽ hoạt động sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng.

PGS, TS Nguyễn Quang Huy, CEO Khoa Tài chính - Ngân hàng, Trường đại học Nguyễn Trãi nhận định, cốt lõi của chính sách nằm ở việc giải phóng lượng vốn lớn đang “đóng băng” tại NHNN với lãi suất 0,5%/năm, chuyển sang tài sản sinh lời cao hơn. Với quy mô tiền gửi hiện nay, Vietcombank, MB, VPBank và HDBank có thể bổ sung hàng chục nghìn tỷ đồng, qua đó tăng thanh khoản, giảm áp lực huy động và cải thiện biên lợi nhuận (NIM).

Vietcombank có khả năng hưởng lợi nhiều nhất nhờ quy mô tiền gửi và CASA vượt trội, giúp hỗ trợ VCBNeo, đồng thời tối ưu hóa danh mục qua trái phiếu chính phủ và tín dụng doanh nghiệp chất lượng cao. MB tận dụng hệ sinh thái rộng và tốc độ luân chuyển vốn nhanh để củng cố OceanBank (MBV) và mở rộng cho vay SME, bán lẻ. VPBank có thêm động lực cho vay tiêu dùng, bán lẻ và giảm chi phí vốn trong quá trình tiếp nhận GPBank. HDBank với danh mục khách hàng đa dạng có thể nhanh chóng hấp thụ vốn, xử lý DongA Bank (Viki Bank) và duy trì tăng trưởng lợi nhuận.

Lo tăng gánh nặng nợ xấu

Ông Nguyễn Thế Minh, Giám đốc Khối Nghiên cứu và phát triển khách hàng cá nhân tại Chứng khoán Yuanta Việt Nam đánh giá, việc giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc cho bốn ngân hàng nhận chuyển giao bắt buộc sẽ tạo ra hiệu ứng đáng kể. Tuy nhiên, ông Minh đưa ra cảnh báo về nguy cơ gia tăng nợ xấu nếu quá trình tái cơ cấu không được giám sát chặt chẽ. NHNN cần thiết lập cơ chế kiểm soát tương tự các bài kiểm tra sức chịu đựng (“stress test”) theo chuẩn Basel II hoặc Basel III để đánh giá hiệu quả hoạt động sau sáp nhập.

Ông Minh nhấn mạnh, nhà điều hành phải theo dõi chất lượng tài sản của các ngân hàng sau tiếp nhận, tránh tình trạng “gộp” hai đơn vị yếu kém thành một tổ chức quy mô lớn nhưng vẫn mang những rủi ro cũ, khiến hệ thống tài chính đối mặt nguy cơ bất ổn.

Theo thống kê của VietstockFinance, đến cuối quý II/2025, trong số 29 ngân hàng được khảo sát, có 11 ngân hàng giảm tỷ lệ nợ xấu trên dư nợ vay so với đầu năm, tăng đáng kể so với con số bảy ngân hàng ở cuối quý I. Số ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu vượt ngưỡng 3% vẫn giữ nguyên ở mức tám đơn vị. Trong nửa đầu năm, tổng chi phí dự phòng rủi ro tín dụng toàn hệ thống đạt 86.057 tỷ đồng, tăng 10% so cùng kỳ 2024. 14 ngân hàng tăng trích lập dự phòng, trong khi chỉ 5 ngân hàng ghi nhận lợi nhuận trước thuế giảm.

Ông Huy cho rằng, nợ xấu đang ở giai đoạn “ổn định trong áp lực”, phản ánh hệ thống ngân hàng dần chuyển từ phòng thủ sang chủ động kiểm soát rủi ro. Chính sách tiền tệ ổn định, lãi suất thấp cùng cơ chế cơ cấu nợ theo Thông tư 02 đã tạo vùng đệm quan trọng cho doanh nghiệp và người dân.

Theo ông Huy, có ba kịch bản nợ xấu từ nay đến cuối năm. Ở kịch bản cơ sở, nhiều khả năng xảy ra nhất, tỷ lệ nợ xấu dao động 3,2 - 3,5%, trong tầm kiểm soát. Với kịch bản tích cực, nếu kinh tế phục hồi mạnh, tỷ lệ này có thể giảm dưới 3%. Ngược lại, trong tình huống bất lợi, nợ xấu có thể vượt 3,8 - 4%, gây áp lực lớn cho hệ thống và đòi hỏi biện pháp ứng phó quyết liệt hơn.

Nhìn chung, dù tỷ lệ nợ xấu đã có dấu hiệu cải thiện, con đường phía trước vẫn tiềm ẩn nhiều thách thức. Việc giảm dự trữ bắt buộc cho nhóm ngân hàng “đặc thù” là một bước nới lỏng thanh khoản có mục tiêu, hướng vào các định chế chủ lực đang gánh trọng trách tái cơ cấu hệ thống, vừa hỗ trợ khơi thông nguồn vốn, vừa hạn chế nguy cơ tạo áp lực lạm phát.

Về dài hạn, đây không chỉ là biện pháp hỗ trợ trước mắt, mà còn là chiến lược củng cố nền tảng vốn tự có, giảm sự lệ thuộc vào huy động bên ngoài và nâng cao sức cạnh tranh của hệ thống ngân hàng.

Theo quy định hiện hành, với tiền gửi bằng đồng Việt Nam, tỷ lệ dự trữ bắt buộc là 3% đối với tiền gửi không kỳ hạn và kỳ hạn dưới 12 tháng, 1% đối với kỳ hạn từ 12 tháng trở lên. Với tiền gửi bằng ngoại tệ, mức này dao động từ 1% đến 8%.

Xem thêm