Nền tảng thị trường trái phiếu đang được củng cố, mở đường cho tăng trưởng trở lại.
Nền tảng thị trường trái phiếu đang được củng cố, mở đường cho tăng trưởng trở lại.

Biến trái phiếu thành “hàng hiệu”

Thị trường trái phiếu doanh nghiệp (TPDN) Việt Nam đang phục hồi tích cực sau giai đoạn biến động kéo dài, song vẫn đối mặt với nhiều thách thức. Các chuyên gia cho rằng, để lấy lại niềm tin nội địa và thu hút thêm dòng vốn đầu tư nước ngoài, cần một “cuộc đại tu” về chất lượng.

Năm 2025, thị trường TPDN đang cho thấy diện mạo mới với quy mô phát hành, thanh khoản và chất lượng tín dụng đều cải thiện. Sau biến động 2022-2023, nền tảng thị trường được củng cố, mở đường cho tăng trưởng trở lại. Tính đến cuối năm 2024, quy mô thị trường trái phiếu đạt khoảng 20% GDP, TPDN chỉ chiếm khoảng 12%, còn lại là trái phiếu chính phủ.

Phân loại “vàng, thau” hút vốn nội

Nhóm nghiên cứu của Viện Đào tạo và Nghiên cứu BIDV đánh giá, dù thị trường TPDN đã ghi nhận kết quả tích cực và còn dư địa phát triển lớn, nhưng vẫn tồn tại những điểm nghẽn. Cơ cấu phát hành chưa đa dạng khi tổ chức tín dụng chiếm tới 69,6% và doanh nghiệp bất động sản chiếm 19,7% tổng lượng phát hành. Tỷ lệ doanh nghiệp chậm hoặc hoãn thanh toán đáo hạn vẫn ở mức đáng kể, ảnh hưởng đến niềm tin nhà đầu tư.

Theo ông Lê Việt Cường, chuyên gia phân tích của VIS Rating, việc hơn 80% dư nợ vẫn tập trung vào hai nhóm ngân hàng và bất động sản vừa khẳng định vai trò trụ cột của hai ngành này, vừa tiềm ẩn rủi ro tập trung đáng kể. Trong bối cảnh Chính phủ đặt mục tiêu nâng tỷ lệ dư nợ TPDN lên 25% GDP vào năm 2030, yêu cầu phân tán rủi ro và mở rộng kênh huy động sang các lĩnh vực khác trở nên cấp bách hơn bao giờ hết.

Điều này không chỉ tạo ra động lực tăng trưởng trước mắt mà còn định hình một thị trường vốn cân bằng và bền vững hơn. Việc siết chặt tiêu chuẩn phát hành, nâng cao minh bạch thông tin và tăng cường trách nhiệm của đại diện trái chủ đang đặt nền tảng cho một môi trường kỷ luật, góp phần củng cố niềm tin của nhà đầu tư và thúc đẩy sự phát triển dài hạn.

Bên cạnh những giải pháp vĩ mô, ông Dương Đức Hiếu, Giám đốc Khối Xếp hạng và Nghiên cứu VIS Rating cho biết, xếp hạng tín nhiệm đóng vai trò rất quan trọng trong sự phát triển của thị trường TPDN thông qua cung cấp thông tin đáng tin cậy về chất lượng các nhà phát hành và công cụ nợ.

Thực tế, các thị trường châu Á đã áp dụng xếp hạng tín nhiệm từ rất sớm. Sau khi có sự tham gia của hoạt động xếp hạng tín nhiệm nội địa, quy mô thị trường TPDN đã chứng kiến tốc độ tăng trưởng tính bằng con số chục lần. Trong khi đó, sự phát triển của thị trường xếp hạng tín nhiệm tại Việt Nam mới chỉ ở những bước khởi đầu, chưa tới 10% tổng khối lượng phát hành TPDN riêng lẻ.

“Một trong những giá trị lớn nhất của xếp hạng tín nhiệm là phân loại về định giá. Gọi nôm na là giúp thị trường phân biệt rõ “hàng hiệu” và “hàng bình dân”, nhờ đó định giá đúng với mức rủi ro, tránh tình trạng mọi sản phẩm đều bị trả chung một mức giá”, ông Hiếu phân tích.

Đưa ra góc nhìn thận trọng, ông Lê Việt Cường cho rằng, thị trường đã có hơn 111 doanh nghiệp được xếp hạng tín nhiệm vào giữa năm 2025, tăng mạnh so với giai đoạn 2019 - 2022. Dù đây là công cụ hỗ trợ đánh giá rủi ro nhưng không thay thế thẩm định riêng, và khung pháp lý cùng giám sát vẫn cần tiếp tục hoàn thiện để ngăn ngừa kẽ hở cho các tổ chức phát hành thiếu minh bạch.

Theo đó, nhóm nghiên cứu của Viện Đào tạo và Nghiên cứu BIDV đề xuất cần tăng cường giám sát trái phiếu sau phát hành, từ quản lý tài sản bảo đảm, theo dõi dòng tiền đến rà soát quy trình định kỳ và áp dụng chế tài nghiêm với hành vi lách luật hay sử dụng vốn sai mục đích. Cùng với đó, cần đẩy mạnh giáo dục tài chính cho cá nhân và có chính sách khuyến khích tổ chức tham gia. Hiện quy định tại Thông tư 98/2022/TT-BTC giới hạn quỹ mở chỉ được mua trái phiếu riêng lẻ có bảo lãnh thanh toán hoặc cam kết mua lại, trong khi thực tế chỉ 14,5% trái phiếu phát hành đáp ứng điều kiện này. Quy định này nên được điều chỉnh để mở rộng cơ hội cho nhà đầu tư tổ chức.

Năm 2015, quy mô thị trường TPDN Việt Nam mới chỉ đạt 5% GDP. Hiện nay quy mô thị trường đã rất phát triển nhưng vẫn còn cách khá xa so với các nước phát triển như Hàn Quốc (80% GDP), Nhật Bản (200% GDP).

Nâng hạng thị trường “câu” vốn ngoại

Bên cạnh nguồn vốn nội địa, nhiều chuyên gia cho rằng để gia tăng lợi thế huy động, đặc biệt là thu hút dòng vốn ngoại, thị trường TPDN cần hướng tới mục tiêu nâng hạng.

Tại một tọa đàm về thị trường vốn gần đây, ông Dominic Scriven, Chủ tịch điều hành Dragon Capital cho biết, trong 15 năm quỹ này kêu gọi nhà đầu tư nước ngoài tham gia vào sản phẩm TPDN Việt Nam, họ chỉ nhận được “cái gật đầu” từ hai nhà đầu tư.

Ông Dominic Scriven cho biết, kết quả trên không đến từ lãi suất thấp vì sản phẩm của họ mang về lãi suất bình quân hằng năm tới 8,5% tính bằng USD - mức hấp dẫn mà đến từ việc thị trường chưa được nâng hạng. Hiện Việt Nam chưa đạt mức “đầu tư” (investment grade), chuẩn mực dành cho các thị trường giao dịch chứng khoán nợ, đặc biệt là trái phiếu, có xếp hạng tín dụng cao, rủi ro vỡ nợ thấp và khả năng trả nợ đáng tin cậy.

Các tổ chức xếp hạng quốc tế như S&P, Moody’s, Fitch sử dụng thang AAA, AA, A, BBB cho nhóm investment grade, trong khi năm vừa qua Việt Nam được S&P và Fitch chấm BB+, Moody’s chấm Ba2, thuộc nhóm “ổn định”.

Tại Đề án Cải thiện xếp hạng tín nhiệm quốc gia được phê duyệt năm 2022, Chính phủ đã đặt mục tiêu nâng xếp hạng tín nhiệm quốc gia lên mức đầu tư từ Baa3 trở lên trước năm 2030. Đây không chỉ là một chỉ tiêu kỹ thuật mà là chiến lược dài hạn nhằm thu hút thêm vốn nước ngoài, giảm chi phí huy động và nâng cao uy tín quốc gia.

Đồng quan điểm, ông Nguyễn Quang Thuân, Chủ tịch FiinGroup và FiinRatings cho rằng, việc thị trường trái phiếu chưa được nâng hạng khiến doanh nghiệp Việt Nam mất lợi thế huy động vốn, đặc biệt vốn nước ngoài. Ông dẫn chứng một doanh nghiệp cùng ngành tại Indonesia chỉ phải trả lãi suất khoảng 5,5%/năm cho kỳ hạn 5 năm, trong khi doanh nghiệp Việt Nam hầu như không vay USD được dưới 7%.

Hiện, nhu cầu vốn cho đầu tư công và mở rộng sản xuất rất lớn, riêng các doanh nghiệp niêm yết dự kiến tăng vốn 198.700 tỷ đồng trong năm nay, nhưng mới thực hiện được 56.200 tỷ trong bảy tháng đầu năm, cho thấy nhu cầu còn khổng lồ. Việc nâng hạng thị trường trái phiếu trở thành yêu cầu cấp bách để giảm chi phí vốn và giải tỏa “cơn khát” này.

Tuy nhiên, các chuyên gia đều đồng tình việc nâng hạng thị trường là “không phải đơn giản”, để đạt được mục tiêu này, cần quyết liệt cải thiện minh bạch thông tin, cải thiện trạng thái ngoại hối, cấu trúc thị trường tài chính… Ngoài ra, cần sớm xây dựng danh mục phân loại xanh làm nền tảng cho tài chính xanh và trái phiếu xanh.

Theo ông Jeffrey Lee, Giám đốc phụ trách Khu vực châu Á - Thái Bình Dương, Moody’s Ratings, các nhà đầu tư nước ngoài không chỉ quan tâm đến việc một trái phiếu có được gán nhãn “xanh” hay không mà họ còn muốn khám phá sâu hơn để hiểu rõ hơn về mức độ ảnh hưởng tới môi trường của trái phiếu đó, hay còn gọi là trái phiếu xanh, xã hội và bền vững (GSS). Điều này cũng thể hiện sự mong muốn ngày càng tăng của các nhà đầu tư về tính minh bạch cũng như các liên quan đến yếu tố môi trường của các trái phiếu mà họ đầu tư vào.

Dù vậy, theo các chuyên gia, then chốt vẫn nằm ở chính các doanh nghiệp. Muốn nâng hạng tín nhiệm, doanh nghiệp phải bắt đầu từ việc minh bạch hóa thông tin và cải thiện chất lượng quản trị. Cùng với đó, cần bảo đảm chất lượng trái phiếu, lựa chọn các dự án dài hạn, khả thi và thực hiện nghiêm các cam kết với nhà đầu tư, tránh tình trạng đổ vỡ giữa chừng làm xói mòn niềm tin thị trường.

"Thanh khoản, quản trị rủi ro, hiệu quả đầu tư và uy tín là bốn yếu tố quan trọng để thu hút nhà đầu tư vào trái phiếu, kể cả vốn ngoại hay vốn nội", ông Dominic Scriven nhấn mạnh.

Xem thêm