Hà Nội ngày 13/3/1984, Hội nghị khoa học lịch sử "30 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ". Các đồng chí: Đại tướng Võ Nguyên Giáp (hàng đầu từ trái sang), Trung tướng Nam Long (Sư đoàn 304, sau Đại tướng), Trung tướng Phạm Hồng Sơn (Sư đoàn 308), Trung tướng Nguyễn Hữu An (Sư đoàn 316)... hỏi chuyện Đại tá Tạ Quốc Luật (Sư đoàn 312, bên phải) về việc bắt sống tướng De Casterie ngày 7/5/1954 và kéo cờ chiến thắng toàn mặt trận Điện Biên Phủ. Ảnh gia đình cung cấp
Hà Nội ngày 13/3/1984, Hội nghị khoa học lịch sử "30 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ". Các đồng chí: Đại tướng Võ Nguyên Giáp (hàng đầu từ trái sang), Trung tướng Nam Long (Sư đoàn 304, sau Đại tướng), Trung tướng Phạm Hồng Sơn (Sư đoàn 308), Trung tướng Nguyễn Hữu An (Sư đoàn 316)... hỏi chuyện Đại tá Tạ Quốc Luật (Sư đoàn 312, bên phải) về việc bắt sống tướng De Casterie ngày 7/5/1954 và kéo cờ chiến thắng toàn mặt trận Điện Biên Phủ. Ảnh gia đình cung cấp

KỶ NIỆM 80 NĂM CÁCH MẠNG THÁNG TÁM VÀ QUỐC KHÁNH 2/9

Một trong những chiến sĩ đầu tiên của quân đội anh hùng

Những câu chuyện về ông được nhắc nhiều qua lời kể các tướng lĩnh, sĩ quan, chiến sĩ đã cùng chiến đấu, công tác; qua nỗi nhớ của gia đình mà nhắc đến là giọt nước mắt có khi không nén được.

1. Gia đình Trung tướng Nam Long (1921-1999) chia sẻ với chúng tôi một số tư liệu mà ở đó, nếu không nhắc lại nữa đường binh nghiệp và những đóng góp của một trong những người lính Quân đội nhân dân Việt Nam đầu tiên năm xưa, vốn đã được báo, đài kể nhiều lần, ta có thể cảm nhận được hơi ấm một con người từ những khía cạnh khác. Đó là sự quan tâm, nâng niu tha thiết với gia đình, đồng đội, mọi người.

Đó là từ cuối những năm 1930, phong trào cách mạng lan về huyện Hòa An trước kia của tỉnh Cao Bằng. Người thanh niên dân tộc Tày Đoàn Văn Ưu (tên thật của ông Nam Long) quyết định thoát ly đi hoạt động. Mấy tháng trời, anh vào rừng kiếm củi gánh ra chợ Cao Bình bán, dành dụm ít tiền cho mế khi không có con ở bên.

Đó là năm 1965, một lần ông đang trực chỉ huy trên núi Quyết ở Vinh, Nghệ An trên cương vị Tư lệnh quân khu 4, theo dõi tình hình giặc Mỹ ném bom. Đúng thời điểm ác liệt, nhà báo Hà Phương của Đài Tiếng nói Việt Nam đến phỏng vấn ông. Đang mải quan sát và không muốn nói về mình, ông bảo: “Những điều đáng nói đều ở ngoài mặt trận kia. Những người lính của chúng ta mới đáng nói, vì chính họ đã giăng lên lưới lửa phòng không để thiêu rụi máy bay Mỹ trên bầu trời thành phố quê hương Bác…”. Giao đồng chí liên lạc đưa nhà báo xuống núi theo đường đánh dấu để tránh bom từ trường, vị Tư lệnh không quên đưa chiếc mũ sắt của mình cho nhà báo đội. Ông nói: Tôi đang làm việc trong hầm, dù sao cũng an toàn hơn… Chỉ một lát sau, bom đã hất văng nhà báo Hà Phương và vùi nửa người đồng chí liên lạc. May cả hai còn tỉnh táo, chỉ bị xây xước. Còn chiếc mũ thì bị mảnh bom cứa một vết nứt qua đỉnh đầu. Nhà báo Hà Phương hú vía vì thoát chết!

Kỷ niệm khác được Đại tá Huỳnh Thúc Tuệ nhớ lại: Năm 1951, sau chiến dịch Thượng Lào, một lần khi ông Tuệ đang chỉ huy anh em luyện tập mở cửa, xung kích và đánh lô-cốt, hầm ngầm thì bỗng có lệnh tạm ngừng. Ông Nam Long đã đứng trên hào ở phía sau từ khi nào và góp ý luôn, thẳng thắn, chân tình. Ông khen chỉ huy khá, nhưng còn rập khuôn. Lực lượng xung kích 1 đang sung sức và ở gần mục tiêu thì có thể đánh tiếp chứ không phải dừng lại để điều lực lượng 2 lên, mà có thể để lực lượng này dự bị phòng khi địch có chi viện…

Cũng trong hồi ức Đại tá Huỳnh Thúc Tuệ, một tối sương lạnh trên đỉnh núi Pù Hồng Mèo, đồng chí Nam Long đến. Thấy chiến sĩ đang làm hầm pháo, thao tác còn lúng túng, ông cầm rìu, cưa thị phạm luôn, thành thạo “như một bác phó mộc”. Lần khác, trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, ngày 22/3/1954, giữa các đợt tấn công, ông Nam Long xuống tận chiến hào kiểm tra công sự, động viên chiến sĩ bảo đảm nước uống, giữ sức khỏe. Ông ra tận đầu chiến hào trận địa chữ T trao đổi với chiến sĩ về kỹ thuật chiến đấu.

2. Nhiều đồng đội nhớ về người cán bộ chỉ huy Nam Long như một tấm gương trọn đời trung kiên, chiến đấu gan dạ, chỉ huy mưu trí, sáng tạo, sống mộc mạc, thẳng thắn, chân thành và rất quan tâm đến chiến sĩ. Chẳng thế mà, một lần vị tướng đã cho cậu con trai Đoàn Nam Tiến “ăn chưởng” như lời kể của ông Tiến tóc nay đã lốm đốm bạc. Đó là năm 1973, tướng Nam Long chuyển công tác ra bắc. Cùng anh em về đến nhà, theo thói quen, mọi người bỏ súng ra lau. Nam Tiến mới 7 tuổi, chưa biết kỷ luật trong quân đội cấm chĩa bừa súng vào người khác, kể cả khi súng không có đạn. Cậu bé nghịch, cầm khẩu súng lục giơ về phía ông Dương Tuấn Anh, bảo vệ của tướng Nam Long. Ngay lập tức, ông Nam Long gạt bay khẩu súng và cho Nam Tiến luôn 2 cái tát! “Tôi ù hết cả tai. Cụ chỉ: Súng chỉ nhằm vào kẻ thù. Còn đây, là đồng đội của tao! Đấy là kỷ niệm “ăn chưởng” của tôi sau bao năm gặp bố, tôi nhớ mãi”, ông Nam Tiến bồi hồi.

Một lần khác, được thấm cái nghiêm, thẳng và sự mộc mạc của người cha, đó là hồi học lớp 7, chuẩn bị được kết nạp Đoàn, Nam Tiến khai vào sổ, rất “oai”: Bố: Tướng Nam Long. Khai xong thì phải đóng dấu cơ quan bố rồi nộp lại nhà trường để kết nạp. “Đem về cụ đọc, cụ xé xoẹt một cái, bảo khai lại: Bố: Nam Long; nghề nghiệp: Bộ đội. Tôi được thêm bài học nhớ đời nữa”.

Cũng chính người cha ấy, nhớ về một kỷ niệm nữa mà người kể rơi nước mắt. Cuối những năm 1980, chàng thanh niên Đoàn Nam Tiến đã là thủy thủ, còn Trung tướng Nam Long đã nghỉ hưu, ông bà sống trong TP Hồ Chí Minh. Hôm đó 29 Tết, lẽ ra tàu đi Indonesia nhưng lại thôi. Nam Tiến quay về với bố mẹ. “Thấy nhà cửa chưa có không khí gì cả, tôi gọi. Cụ ra mở cửa, ngạc nhiên và vui mừng lắm: Ơ Nam Tiến, về hả con! - Con không phải đi nữa ạ, được ăn Tết ở nhà. Cụ ông liền gọi cụ bà: Nam Tiến về rồi, chuẩn bị Tết. Thế là hai cụ vội đi mua hai chậu cúc về. Tôi hỏi bố, thế sao nhà không chuẩn bị Tết. Cụ nói: Không có con thì không có Tết...”.

62.jpg

Được cử đi học Trường quân sự Hoàng Phố bên Trung Quốc, trở về nước, ông Nam Long được giao là Chính trị viên Trung đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân; rồi Chi đội trưởng Chi đội Nam tiến… Trưởng thành trong chiến đấu, ông từng giữ nhiều trọng trách ở các trung, sư đoàn, mặt trận. Trong đó có Tham mưu trưởng Sư đoàn 304, sau là Sư đoàn phó rồi Sư đoàn trưởng; Phó tư lệnh kiêm Tham mưu trưởng Bộ tư lệnh pháo binh; Tư lệnh Quân khu 4; Phó tư lệnh Quân khu Trị Thiên; Đặc phái viên của Bộ Quốc phòng - Tham gia Chiến dịch Hồ Chí Minh; Phó giám đốc Học viện Quân sự cấp cao (nay là Học viện Quốc phòng)…

3. Ông Đoàn Nam Tiến là con út, mang cái tên miền đất nơi mình sinh ra, thuộc huyện Nam Đàn trước kia của tỉnh Nghệ An, khi tướng Nam Long là Tư lệnh Quân khu 4. Hồi nhỏ ông Tiến chủ yếu sống cùng mẹ vì bố đi chiến trường. Ngôi nhà nhỏ 24 m2 trên phố Phan Đình Phùng (Hà Nội) là nơi bà đằng đẵng đợi ông. Sau này khi ông về, gia đình được phân thêm 24 m2 nữa. Những năm chống Pháp, rồi chống Mỹ, do yêu cầu nhiệm vụ, ông công tác trên nhiều địa bàn khác nhau. Bà đi theo ông nhưng không thể liên tục, vì còn vướng bận con cái. Sáu người con của ông bà, chính vì sự di chuyển ấy, mà người thì sinh ở Phú Thọ, người sinh Hà Nội, người ra đời ở Nghệ An... “Với bố tôi, chiến trường là nhà, đất nước là quê hương”, ông Đoàn Nam Tiến nói.

Hoàn cảnh riêng của một nhà, cũng như bao gia đình khác thời chiến, lắng chiếu hình ảnh đất nước ở sự chia tách, hội ngộ, rồi tạm chia tay, đến ngày sum họp. Từ hồi tóc còn xanh đến với nhau, đời sống vợ chồng người lính Nam Long đã như “mặc định” rồi. Xưa bà Đào Lê Đức là con một công chức khá giả ở ga Vinh. Ông cụ vào đó làm việc, đưa gia đình từ Phủ Lạng Thương đi theo. Ngày 27/9/1945, tàu đưa đoàn quân Nam tiến hành quân qua đây, ông Nam Long khi đó là chính trị viên Chi đội Việt Bắc (còn gọi là Chi đội 3 Nam tiến). Còn bà Đức mới 20 tuổi, tình nguyện nấu cơm cho bộ đội, rồi hòa với dòng cách mạng, bà cùng ba chị khác theo làm y tá cho đơn vị. Trước đó được giác ngộ, cô nữ sinh đã đi may cờ, vận động nhiều chị em tham gia các đoàn thể cứu quốc. Lòng yêu nước và lý tưởng của tuổi trẻ đã gieo tình yêu giữa hai người.

Chi đội Nam tiến cũng là đơn vị đầu tiên đến mặt trận Sài Gòn, chiến đấu dũng cảm, mưu trí, được người dân yêu mến gọi với cái tên: Chi đội Nam Long, bộ đội Nam Long. Nhưng quân Pháp quá mạnh, quân ta rút từ Thủ Đức ra Nha Trang, lên Tây Nguyên, địch còn truy kích theo. Bà Đức vẫn ở trong đội cứu thương. Chi đội vỡ, bà về Nghệ An ở. Ông ra bắc lập phòng tuyến ở Hải Dương, sau đó rút lên Phú Thọ, về An toàn khu…

Nhắc lại lời mẹ, ông Đoàn Nam Tiến rưng rưng: Ở Phú Thọ, bố tôi đưa ít tiền, nhờ một người lính là con của một vị từng làm quan trong triều đình Huế, dặn: Về Nghệ An tìm chị. Nếu như chị lấy chồng rồi thì số tiền này mua đồ trẻ con tặng cho chị. Nếu chẳng may chị mất rồi thì mua hoa trải lên mộ. Nếu còn sống, thì đưa về đây cho anh…

Mỗi lần kể chuyện ấy với các con, bà Đức lại khóc. Lần đó, người lính về Nghệ An gặp được bà. Gia đình bà từng rất phản đối chuyện tình cảm của con gái, nhưng rồi đã nhờ một bà trẻ trong họ bằng tuổi bà Đức đưa “cô dâu” lên Phú Thọ. Ông Nam Long, bà Lê Đức gặp lại nhau, họ làm đám cưới. “Vừa tổ chức thì đã có tin quân Pháp đánh nống ra, bố tôi lại lên ngựa hành quân...”, ông Nam Tiến kể. Cuộc đời ông và các anh chị trong nhà, đến hôm nay vẫn luôn có hình bóng cha mẹ kề bên.

Xem thêm