Thủ tướng Phạm Minh Chính từng nhấn mạnh rằng, trước hết phải có “công dân số” thì mới kiến tạo được “nền kinh tế số”, “quốc gia số”, “xã hội số”…
Kế thừa từ lịch sử
GS, TS Phạm Tất Dong, nguyên Phó Chủ tịch Hội Khuyến học Việt Nam, người từng nghiên cứu sâu về phong trào Bình dân học vụ nhớ lại, ngay sau ngày Cách mạng Tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, tại phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời ngày 3/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng: Nạn dốt là một trong những phương pháp độc ác mà bọn thực dân dùng để cai trị chúng ta. Hơn chín mươi phần trăm đồng bào chúng ta mù chữ... Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu. Vì vậy tôi đề nghị mở một chiến dịch để chống nạn mù chữ.
Thực hiện ý kiến của Bác, ngay sau phiên họp đầu tiên của Chính phủ, ngày 8/9/1945, Chính phủ đã ban hành ba sắc lệnh, đó là: Sắc lệnh 17/SL thành lập Nha Bình dân học vụ, Sắc lệnh 19/SL quy định mọi làng phải có lớp học bình dân và Sắc lệnh 20/SL cưỡng bức học chữ quốc ngữ không mất tiền; đặt sự nghiệp bình dân học vụ vừa là một phong trào cách mạng, vừa là thiết chế giáo dục của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Thực hiện sắc lệnh, phong trào Bình dân học vụ nhanh chóng được triển khai, lan rộng và ăn sâu vào từng thôn xóm, bản làng. Và chỉ một năm sau, đã có 75.000 lớp học được tổ chức với sự tham gia của 95.000 giáo viên; hơn 2,5 triệu người đã biết đọc, biết viết. Đây là một kỳ tích có một không hai về xã hội hóa học tập trong lịch sử giáo dục.
Phong trào Bình dân học vụ cứ thế phát triển, đi theo đồng bào tản cư kháng chiến, theo các đoàn dân công tới các chiến trường... Những lớp bổ túc văn hóa, tiếp sau bình dân học vụ xóa mù chữ đã đưa tám triệu người dân trong chín năm kháng chiến (1946-1954) vừa lo chống giặc giữ nước, vừa học tập, thoát nạn mù chữ, và 5 năm sau, năm 1959, tất cả các tỉnh, thành phố vùng đồng bằng trung du miền bắc đều hoàn thành nhiệm vụ xóa mù chữ cho nhân dân ở độ tuổi 12-50. Kết thúc kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961-1965) các tỉnh miền núi phía bắc đã xóa xong nạn mù chữ cho nhân dân các dân tộc thiểu số.
Kinh nghiệm thực tiễn xóa mù chữ ở miền bắc đã trở thành những bài học quý báu cho công cuộc xóa nạn mù chữ ở miền nam ngay sau ngày đất nước thống nhất. Cuối tháng 2/1978, toàn bộ 21 tỉnh, thành phố ở miền nam đã cơ bản thanh toán nạn mù chữ. Việc sớm xóa nạn mù chữ là yếu tố vô cùng quan trọng để đưa đất nước ta phát triển và đổi mới như ngày nay.

Hướng tới kỷ nguyên số hóa
Tiếp nối truyền thống đó GS, TS Phạm Tất Dong nhấn mạnh, phát triển khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số đang là yếu tố quyết định phát triển của các quốc gia; là điều kiện tiên quyết, thời cơ tốt nhất để nước ta phát triển giàu mạnh, hùng cường trong kỷ nguyên mới. Tổng Bí thư Tô Lâm từng chỉ rõ: “Thực tế hiện nay, còn tỷ lệ lớn người dân, kể cả cán bộ trong cơ quan nhà nước chưa nắm vững về chuyển đổi số... Để thực hiện “xóa mù” về chuyển đổi số”, yêu cầu nhanh chóng phổ cập tri thức cơ bản về chuyển đổi số cho toàn dân đang đặt ra cấp thiết”.
Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia nhấn mạnh: “Tăng cường sự lãnh đạo toàn diện của Đảng, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, sự tham gia tích cực của doanh nhân, doanh nghiệp và Nhân dân đối với phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia. Xác định đây là cuộc cách mạng sâu sắc, toàn diện trên tất cả các lĩnh vực; được triển khai quyết liệt, kiên trì, đồng bộ, nhất quán, lâu dài với những giải pháp đột phá, mang tính cách mạng”. Vì vậy, trong bối cảnh thế giới bước vào kỷ nguyên số, “Bình dân học vụ số” đã bước tiếp “Bình dân học vụ”. Có thể nói, phong trào “Bình dân học vụ số” là nhiệm vụ quan trọng trong tiến trình chuyển đổi số quốc gia. Việc phổ cập tri thức số cho toàn dân chính là nền móng để xây dựng một xã hội tri thức, hình thành thế hệ công dân số chủ động, sáng tạo, thích ứng linh hoạt với thời đại.
Một điển hình xây dựng mô hình “trường học số” đầu tiên ở Thủ đô là Trường THCS Giảng Võ. TS Vũ Đình Phương, Phó Hiệu trưởng nhà trường cho biết, 100% cán bộ, giáo viên và nhân viên của nhà trường đã đạt chứng chỉ Google Certified Educator là nền tảng để xây dựng mô hình “trường học số”. Theo đó, mỗi tổ chuyên môn phát triển kho học liệu số trên Google Drive phục vụ dạy học và bồi dưỡng chuyên môn. Đồng thời, giáo viên sử dụng Google Calendar để quản lý công việc, phân phối kế hoạch dạy học, bảo đảm tính khoa học và minh bạch trong điều hành chuyên môn.
Trường THCS Giảng Võ cũng đổi mới phương pháp giảng dạy theo hướng cá nhân hóa và tăng tính tương tác. Trong đó, tích cực sử dụng Google Forms để thiết kế bài tập, khảo sát nhanh mức độ hiểu bài; tổ chức kiểm tra, đánh giá; ứng dụng Google Jamboard, Google Slides trong hoạt động nhóm, thuyết trình, góp phần tăng tính sáng tạo và tương tác trong mỗi tiết học. Đặc biệt, Trường THCS Giảng Võ phát triển website lớp học - kênh kết nối hiệu quả giữa giáo viên - học sinh - phụ huynh và hình thành “mô hình lớp học số” trong từng phòng học bộ môn.
Thời gian tới, Trường THCS Giảng Võ tổ chức thí điểm các lớp học tích hợp ứng dụng Google Classroom, Earth, Docs, Meet trong dạy học liên môn, dự án. Sử dụng bảng tương tác kết hợp với tài nguyên số giúp học sinh trải nghiệm học tập trực quan, hấp dẫn và sinh động hơn... Đồng thời, xây dựng văn hóa số trong nhà trường. “Với những định hướng này, nhà trường tin rằng việc chuyển đổi số không chỉ dừng lại ở công cụ, mà sẽ trở thành động lực thúc đẩy đổi mới sáng tạo trong giáo dục, giúp học sinh phát triển toàn diện hơn cả về năng lực học tập, kỹ năng sống và năng lực công nghệ...”, TS Vũ Đình Phương tin tưởng.
Với vai trò là nhóm cơ sở giáo dục đại học hàng đầu châu Á theo Đề án phát triển được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, Đại học Bách khoa Hà Nội cam kết huy động mọi nguồn lực để triển khai hiệu quả phong trào “Bình dân học vụ số”. PGS, TS Huỳnh Quyết Thắng, Giám đốc Đại học Bách khoa Hà Nội cho biết sẽ tập trung vào ba giải pháp trọng tâm: Thứ nhất, nhà trường đóng vai trò tiên phong trong việc nâng cao kỹ năng số cho giảng viên, sinh viên, góp phần vào công cuộc xóa mù số trên toàn quốc. Thứ hai, Đại học Bách khoa Hà Nội đặt quyết tâm trở thành đại học số, đẩy mạnh chuyển đổi số toàn diện. Nhà trường sẽ hoàn thiện nền tảng eHUST, nghiên cứu, đào tạo và ứng dụng mạnh mẽ công nghệ số, trí tuệ nhân tạo, qua đó thúc đẩy giáo dục số và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho đất nước. Thứ ba, trường sẽ phát triển các trung tâm xuất sắc về công nghệ chiến lược, đóng góp vào hệ sinh thái khoa học, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.
PGS, TS Huỳnh Quyết Thắng nhìn nhận, phong trào “Bình dân học vụ số” không chỉ mang ý nghĩa giáo dục, mà còn đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội. Khi mỗi người dân làm chủ công nghệ, xã hội sẽ tiến nhanh hơn trên con đường hiện đại hóa. Với sự tham gia tích cực của các tổ chức giáo dục, doanh nghiệp và người dân, phong trào này hứa hẹn góp phần đưa Việt Nam trở thành quốc gia số tiên tiến, vững bước trong kỷ nguyên số hóa.
Hưởng ứng Phong trào “Bình dân học vụ số”, Đại học Bách khoa Hà Nội đã phối hợp với C06 Bộ Công an xây dựng nền tảng binhdanhocvuso.gov.vn để tạo nên nền tảng công nghệ và hệ thống chương trình đào tạo có thể vận hành với quy mô lớn, dễ truy cập, thân thiện với người dùng. Chỉ đạo tại Lễ phát động phong trào và ra mắt nền tảng “Bình dân học vụ số”, Thủ tướng Phạm Minh Chính nhấn mạnh, phong trào “Bình dân học vụ số” phải trở thành một phong trào cách mạng, toàn dân, toàn diện, sâu rộng, không ai bị bỏ lại phía sau..., mỗi đảng viên, cán bộ, công chức phải tiên phong, gương mẫu trong thực hiện phong trào, tinh thần là “đi từng ngõ, đến từng nhà, hướng dẫn từng người” và với phương châm “triển khai nhanh chóng - kết nối rộng khắp - ứng dụng thông minh”.
Trong thời gian qua, công tác chuyển đổi số quốc gia đã đạt nhiều kết quả tích cực. Theo đó, phong trào “Bình dân học vụ số” được triển khai với ba nền tảng. Cụ thể, nền tảng học trực tuyến mở đại trà One Touch và nền tảng học trực tuyến mở đại trà MobiEdu đào tạo cho hơn 1,2 triệu lượt cán bộ, công chức, viên chức và người lao động, đồng thời phổ cập kỹ năng số miễn phí cho hơn 40 triệu lượt người. Còn nền tảng Bình dân học vụ số đã đào tạo hơn 200.000 lượt cán bộ, công chức và lực lượng vũ trang.