Tỷ lệ tử vong phẫu thuật thấp hàng đầu thế giới
Bệnh viện Tim Hà Nội vừa tổ chức workshop quốc tế với 22 phẫu thuật viên nước ngoài đến từ Hồng Kông (Trung Quốc), Singapore, Thái Lan, Malaysia tham dự. Tại đây, các bác sĩ rất trẻ của bệnh viện đã cùng lúc trình diễn 4 ca mổ nội soi live case (mổ trên thực tế).
Sau 2 ngày, sự hồi phục nhanh chóng của các bệnh nhân khiến đồng nghiệp quốc tế ngỡ ngàng. “Họ ca ngợi chúng tôi đã thực hiện mổ thay cả hai van tim bằng phương pháp nội soi trên cùng một lỗ thành ngực và có thể thay cả van động mạch chủ cùng van hai lá. Điều này chỉ có ở các trung tâm tim mạch lớn ở châu Âu hay Mỹ! Thậm chí vượt xa các nước trong khu vục như Thái Lan, Singapore, Indonesia. Đó là tiến bộ tuyệt vời!”, Giám đốc bệnh viện, PGS, TS Nguyễn Sinh Hiền, Chủ tịch Hội Tim mạch Hà Nội, Phó Chủ tịch Hội phẫu thuật tim mạch Việt Nam chia sẻ.
Tim Hà Nội là bệnh viện chuyên ngành tim mạch tuyến cuối của cả nước, năm 2024 có gần 600 nghìn lượt bệnh nhân đến khám, phẫu thuật cho 2.338 ca và thực hiện can thiệp là hơn 12 nghìn ca. Nếu so sánh với các trung tâm tim mạch lớn của cả nước như Viện Tim TP Hồ Chí Minh, Trung tâm Tim mạch (Bệnh viện E), Viện Tim mạch (Bệnh viện Bạch Mai) mỗi năm mổ trên dưới nghìn ca thì Bệnh viện Tim Hà Nội có số lượng mổ, can thiệp tim mạch lớn nhất cả nước.
Hiện tại, Bệnh viện Tim Hà Nội đã triển khai nhiều phẫu thuật tim mạch hiện đại. PGS, TS Nguyễn Sinh Hiền cùng các đồng nghiệp có thể thay quai động mạch chủ, thay lóc tách toàn bộ động mạch chủ ngực, tạo thêm nhiều cơ hội sống cho bệnh nhân. Các bác sĩ đã áp dụng kỹ thuật Hybrid (hai phương pháp) kết hợp thay và đặt Stent Graft, tức là vừa mổ nội soi live case, vừa kết hợp tim mạch can thiệp để điều trị những bệnh mà nếu chỉ làm một phương pháp thì tỷ lệ tử vong rất cao. Gần đây, các bác sĩ bệnh viện cũng đã mổ thay van tim hai lá, làm cầu nối mạch vành cho cụ bà 93 tuổi, sống tại Hà Nội. Chỉ hơn 10 ngày sau cuộc đại phẫu, sức khỏe của bệnh nhân đã hồi phục tốt.
Ở trẻ em, những ca tim bẩm sinh phức tạp vốn phải chuyển sang Singapore, Thái Lan để mổ rất tốn kém và tỷ lệ tử vong cũng cao nhưng nay đã thực hiện ngay tại bệnh viện với tỷ lệ thành công lớn. Những cháu bé vừa lọt lòng, ngày đầu sau sinh vẫn còn dây rốn đã được phẫu thuật tim thành công. Những ca mổ phức tạp trong tim bẩm sinh như đảo 2 lần tâm nhĩ-tâm thất, đảo động mạch để trở về như bình thường, hay những ca bẩm sinh không có hệ thống động mạch phổi, các bác sĩ phải sử dụng kỹ thuật phẫu thuật đặc biệt để chế tạo ra một đường dẫn máu từ tim lên phổi... “Chúng tôi đã gây dựng những kỹ thuật phẫu thuật phức tạp trong điều trị bệnh lý tim mạch ở người lớn và trẻ em đều không khác các kỹ thuật tiên tiến trên thế giới ở Mỹ, ở châu Âu đã thực hiện”, PGS Hiền nói. Trong nhiều năm nay, theo Hội Tim mạch Việt Nam, tỷ lệ tử vong của phẫu thuật ở Bệnh viện Tim Hà Nội luôn ở mức dưới 1,4% - đạt tỷ lệ thấp hàng đầu thế giới.
Đặc biệt, nếu trước đây, các ca mổ tim mạch phải mổ hở, banh hết ngực ra, chẻ dọc xương ức nhưng nay rất nhiều bệnh tim mạch kể cả tim bẩm sinh ở trẻ em lẫn người lớn, đều được mổ nội soi, ít xâm lấn. Thiết bị nội soi được các bác sĩ khéo léo đi qua khoang liên sườn tiếp cận nơi tổn thương vừa không gây viêm xương ức, không gây chảy máu nhiều, không gây biến dạng lồng ngực, giảm đau, giảm mất máu cho người bệnh, tức là phục hồi rất nhanh. “Đấy có thể gọi là đặc sản của BV Tim Hà Nội”, PGS Hiền tự hào nói.
GS, TS Trần Văn Thuấn, Thứ trưởng Y tế đánh giá, trong lĩnh vực tim mạch, ngành y tế Việt Nam ngày càng khẳng định vị thế với nội lực phát triển vững chắc, được hun đúc qua nhiều thế hệ và không ngừng nâng tầm, ngang hàng với khu vực và thế giới. Nhiều bệnh viện trung ương và cấp chuyên sâu đã làm chủ, triển khai thường quy các kỹ thuật y học tiên tiến hàng đầu thế giới và các thầy thuốc của chúng ta được mời đến nhiều quốc gia để chia sẻ kinh nghiệm.

Cơ hội phát triển dịch vụ y tế chất lượng cao
“Chúng tôi đã từng đón 40 bác sĩ ở Mỹ sang làm việc với mong muốn hợp tác chuyên môn. Họ rất muốn đưa tiêu chuẩn của Trường đại học Los Angeles của Mỹ để xây dựng một trung tâm điều trị chuyên sâu, đón bệnh nhân ở các nước trong khu vực chung quanh sang đây tên gọi là Bệnh viện Trường đại học Los Angeles. Nhưng bao năm qua, đề xuất hợp tác của họ vẫn chưa thực hiện được!”, PGS Hiền trăn trở.
PGS Hiền đặt câu hỏi: “Làm sao chúng ta chưa làm được việc thu hút bệnh nhân nước ngoài đến khám và điều trị? Nhiều năm, người Việt chúng ta đi ra nước ngoài chữa bệnh. Trong khi, đây là lĩnh vực tiềm năng: Chúng ta có chính sách mở cửa, tay nghề chuyên môn của đội ngũ y bác sĩ không thua kém, dân số đông, giao thương và hợp tác quốc tế lớn, các công ty nước ngoài, bạn hàng quốc tế đặt tại Việt Nam nhiều, du lịch phát triển!”.
Trả lời câu hỏi này, GS, TS Trần Văn Thuấn cho rằng, trước hết, cơ sở hạ tầng tại nhiều bệnh viện, đặc biệt là khối công lập, chưa đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn quốc tế về không gian chức năng, tiện ích phụ trợ và trải nghiệm tổng thể cho người bệnh quốc tế. Thứ hai, nguồn nhân lực y tế dù có trình độ chuyên môn tốt, nhưng nhìn chung vẫn còn hạn chế về năng lực ngoại ngữ, hiểu biết văn hóa và kỹ năng giao tiếp trong môi trường đa quốc gia. Thứ ba, hệ thống thủ tục hành chính, thanh toán và vận hành bệnh viện còn thiếu tính liên thông và thuận tiện. Việc bệnh nhân quốc tế phải tự lo liệu các thủ tục visa, bảo hiểm, thanh toán ngoại tệ hay chuyển viện giữa các cấp khám, chữa bệnh hiện vẫn còn phức tạp và thiếu đồng bộ, làm giảm trải nghiệm tổng thể dù chất lượng điều trị tốt.
Đặc biệt, một trong những rào cản cốt lõi là sự thiếu hụt các cơ chế tài chính linh hoạt. Hiện nay, khung giá dịch vụ y tế chưa phản ánh đúng giá trị chất lượng điều trị và chưa có sự phân biệt rõ ràng giữa giá dành cho người dân trong nước và người nước ngoài. Việt Nam cũng chưa có chính sách visa y tế riêng biệt như nhiều quốc gia trong khu vực (Malaysia, Singapore, Thái Lan), khiến việc thu hút bệnh nhân quốc tế thiếu tính chủ động và cạnh tranh.
Khơi thông các điểm nghẽn để đưa Việt Nam vươn lên trở thành điểm đến y tế chất lượng cao trong khu vực là mong mỏi của đội ngũ y bác sĩ không chỉ riêng trong lĩnh vực tim mạch. Theo GS Thuấn, trước tiên cần cải cách thể chế, chủ động xây dựng khung pháp lý mới, vượt tầm, bắt kịp các mô hình quản trị y tế tiên tiến. Đặc biệt, cần khẩn trương hoàn thiện các cơ chế về tài chính y tế, giá dịch vụ, tự chủ bệnh viện và thu hút đầu tư. Cùng với đó, huy động khu vực tư nhân và đầu tư xã hội hóa là động lực tăng tốc để tạo bước nhảy vọt về quy mô và chất lượng hệ thống y tế. Đồng thời, phát triển mô hình bệnh viện thông minh, ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI), dữ liệu lớn (big data)… Bên cạnh đó, thúc đẩy nghiên cứu, ứng dụng các kỹ thuật cao, kỹ thuật mới, phát triển các trung tâm y học xuất sắc (Center of Excellence) trong các lĩnh vực mũi nhọn như tim mạch, ung bướu, sản nhi, phẫu thuật can thiệp… Các trung tâm này không chỉ là hạt nhân chuyên môn mà còn là đầu tàu thu hút người bệnh quốc tế, góp phần định vị thương hiệu y tế Việt Nam.
Theo Tổ chức Y tế thế giới, bệnh lý tim mạch là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong trên thế giới. Tại Việt Nam, các bệnh lý tim mạch đã cướp đi sinh mạng của khoảng 200 nghìn người/năm, chiếm 25% số ca tử vong trong dân số. Những năm gần đây, bệnh nhân mắc tim mạch ngày càng trẻ hóa.