Đó là khẳng định của kiến trúc sư (KTS) Trần Ngọc Chính, Chủ tịch Hội Quy hoạch Phát triển đô thị Việt Nam, khi trò chuyện với phóng viên báo Thời Nay về vấn đề này.

Một bước đi mạnh mẽ, thể hiện tầm nhìn táo bạo
Phóng viên (PV): Trong không khí hào hùng của những ngày mùa thu lịch sử, cả nước tưng bừng kỷ niệm 80 năm Cách mạng Tháng Tám thành công và Quốc khánh 2/9, niềm vui như được nhân lên khi đất nước đã có một không gian phát triển mới sau quyết định sắp xếp lại đơn vị hành chính lãnh thổ. Ở góc độ một nhà quy hoạch, ông đánh giá thế nào về quyết định quan trọng này?
KTS Trần Ngọc Chính: Quyết định sắp xếp lại đơn vị hành chính lãnh thổ là một bước đi mạnh mẽ, thể hiện tầm nhìn táo bạo của Đảng và Nhà nước. Với góc nhìn của một nhà quy hoạch, theo tôi, đây là sự kiện có ý nghĩa lịch sử, bởi chưa bao giờ chúng ta tiến hành một cuộc sắp xếp quy mô lớn, toàn diện đến như vậy.
Thực tế, đất nước ta đã từng trải qua nhiều lần điều chỉnh địa giới hành chính lãnh thổ. Năm 1976, chúng ta sáp nhập nhiều tỉnh để hình thành những đơn vị lớn như: Bình Trị Thiên, Nghệ Tĩnh, Hoàng Liên Sơn… Sau đó, vì yêu cầu quản lý, một số tỉnh, thành phố lại được chia tách trở lại. Suốt một thời gian dài, việc chúng ta duy trì 63 tỉnh, thành phố, đã giúp mang lại sự ổn định và tăng trưởng. Tuy nhiên, trong bối cảnh đổi mới và đáp ứng yêu cầu hội nhập, việc duy trì mô hình phân mảnh đã bộc lộ nhiều hạn chế: địa bàn nhỏ, dân số ít, không tạo được dư địa đủ lớn cho phát triển lâu dài.
Quyết định sắp xếp lại đơn vị hành chính lãnh thổ lần này không chỉ đơn thuần là việc sáp nhập các địa phương với nhau, mà như Tổng Bí thư Tô Lâm từng nói, là “sẽ mở ra một không gian phát triển mới cho cả trăm năm sau”, với nền tảng thể chế và không gian phát triển đủ rộng lớn để đất nước bứt phá trong kỷ nguyên mới.
PV: Nghĩa là song hành với việc sắp xếp lại đơn vị hành chính lãnh thổ, nhiều hướng phát triển mới sẽ được mở ra nhờ không gian lãnh thổ mới, thưa ông?
KTS Trần Ngọc Chính: Đúng vậy! Điểm đặc biệt nhất của lần sắp xếp lại đơn vị hành chính lãnh thổ này là tạo ra một không gian chiến lược mới gắn liền với kinh tế biển. Tỷ lệ tỉnh, thành phố có biển đã tăng từ 44% lên gần 70% tổng số đơn vị hành chính, phản ánh rõ quan điểm của các cấp có thẩm quyền khi định hướng phát triển kinh tế biển phải trở thành một trụ cột của nền kinh tế quốc gia. Việc hình thành những không gian “rừng có biển, biển có rừng” sẽ giúp chúng ta phát triển đồng bộ, vừa khai thác thế mạnh xuất nhập khẩu, vừa kết hợp du lịch, dịch vụ, công nghiệp chế biến, tạo sự liên kết vùng chặt chẽ và hợp lý.
Cách tiếp cận này của cấp có thẩm quyền đã vượt ra ngoài ranh giới hành chính đơn thuần. Bởi đó là tầm nhìn chiến lược khi đặt Việt Nam trong không gian phát triển khu vực và quốc tế. Tất cả những sắp xếp lại đều đã tính toán đến không gian phát triển không chỉ cho hôm nay mà cho cả hàng thế kỷ phía trước, mở ra nền tảng để Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, hiện đại về đô thị, gắn kết vùng miền chặt chẽ và hội nhập sâu với chuỗi phát triển toàn cầu.
PV: Ông có thể phân tích thêm về tiềm năng và thách thức được hình thành sau sắp xếp lại đơn vị hành chính lãnh thổ để Việt Nam phát triển kinh tế biển?
KTS Trần Ngọc Chính: Thực tế, Việt Nam có được nhiều ưu đãi tự nhiên vượt trội để phát triển kinh tế biển, điều mà nhiều quốc gia trên thế giới phải mơ ước. Trước hết, chúng ta có bờ biển dài tới 3.260 km, cùng hệ thống đảo phong phú. Dọc dải bờ biển ấy là hàng loạt bãi tắm cát trắng có thể khai thác quanh năm, nhiều nơi đã nổi tiếng toàn cầu như Đà Nẵng - một trong sáu bãi biển đẹp nhất thế giới, hay những thắng cảnh như: Hạ Long, Nha Trang, Phú Quốc…
Biển Việt Nam còn giàu có về tài nguyên, từ dầu khí ở thềm lục địa, hải sản đa dạng, cho tới tiềm năng phát triển năng lượng tái tạo như điện gió, điện sóng. Đặc biệt, chúng ta có hệ thống cảng biển được thiên nhiên ban tặng điều kiện hiếm có như: Lạch Huyện (Hải Phòng), Cái Mép - Thị Vải (Thành phố Hồ Chí Minh)... Đây đều là những cảng có độ sâu, vị trí chiến lược và khả năng đón tàu vạn tấn, mở ra lợi thế lớn để Việt Nam trở thành trung tâm logistics của khu vực.
Điều đáng nói, việc sắp xếp lại đơn vị hành chính lãnh thổ lần này đã tạo ra những không gian phát triển đột phá gắn liền với biển. Điển hình như Thành phố Hồ Chí Minh, sau khi hợp nhất không chỉ là trung tâm tài chính lớn mà còn sở hữu cảng biển quốc gia kết nối trực tiếp với nhiều cảng, nhiều sân bay lớn liền kề. Hay ở Tây Nguyên, nhiều tỉnh cũng được “mở cửa hướng ra biển” nhờ sáp nhập, tạo thuận lợi cho xuất khẩu và phát triển kinh tế biển - nền tảng quan trọng cho sự phát triển bền vững.
Tuy nhiên cũng phải nhìn nhận, hiện nguồn lực tự nhiên ven biển chưa được khai thác hiệu quả, hạ tầng giao thông chưa đồng bộ, đặc biệt là thiếu đường sắt kết nối cảng biển khiến chi phí logistics cao. Việt Nam lại nằm trong nhóm quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề của biến đổi khí hậu, nên cần giải pháp thích ứng lâu dài. Hơn nữa, không phải nơi nào có biển cũng có thể làm cảng; điều kiện tự nhiên mới là yếu tố quyết định. Thay vì chỉ tập trung vào cảng, các địa phương có thể đa dạng hóa phát triển kinh tế biển, từ năng lượng tái tạo, du lịch cho tới khai thác hải sản...
Công tác quy hoạch phải đi trước một bước
PV: Để không “trượt nhịp” cải cách lần này, vấn đề then chốt nhất cần được đặt ra cho các địa phương mới hiện nay là gì, thưa ông?
KTS Trần Ngọc Chính: Điều cấp bách nhất lúc này chính là công tác quy hoạch phải đi trước một bước. Địa giới hành chính đã thay đổi, đồng nghĩa với việc toàn bộ hệ thống quy hoạch hiện hành cũng không còn phù hợp.
Trước hết, Luật Quy hoạch cần được khẩn trương sửa đổi để đáp ứng yêu cầu mới. Thứ đến, quy hoạch tổng thể quốc gia hiện nay vốn được thiết kế cho 63 tỉnh, sáu vùng kinh tế, nay không thể tiếp tục áp dụng cho 34 tỉnh, thành phố và cơ cấu vùng mới. Vì vậy, phải lập lại quy hoạch tổng thể quốc gia, nhằm xác định rõ vị trí, tiềm năng và định hướng phát triển của từng địa phương trong không gian phát triển thống nhất. Các quy hoạch vùng cũng cần được xây dựng lại.
Đối với các tỉnh mới, không thể chỉ đơn thuần cộng gộp những quy hoạch cũ, mà phải làm lại quy hoạch từ đầu, tính toán tối ưu hóa không gian, kết nối rừng với biển, bố trí hợp lý công nghiệp, du lịch và văn hóa theo đặc điểm mới. Ngay cả những tỉnh giữ nguyên cũng cần rà soát lại quy hoạch bởi cấp huyện đã xóa bỏ.
Đặc biệt, quy hoạch xã, phường, đặc khu phải được tiến hành trước để nhanh chóng đáp ứng nhu cầu thực tiễn của người dân và các dự án phát triển, nhưng vẫn phải gắn với tầm nhìn dài hạn, bảo đảm phù hợp quy hoạch cấp tỉnh. Nghĩa là cần “phối lại bản tổng phổ” phát triển quốc gia một cách đồng bộ, khoa học và bền vững.
PV: Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 66.1/2025/NQ-CP nhằm tháo gỡ khó khăn trong lập, điều chỉnh và phê duyệt quy hoạch phân khu ở các địa phương sau sắp xếp đơn vị hành chính. Ông nhận định gì về quyết định quan trọng này?
KTS Trần Ngọc Chính: Đây là một quyết định kịp thời, mang tầm chiến lược của Chính phủ. Điểm then chốt là cho phép địa phương lập và phê duyệt quy hoạch phân khu trước, rồi cập nhật vào quy hoạch cấp tỉnh và cấp cao hơn, qua đó tháo gỡ nút thắt pháp lý, rút ngắn thời gian chuẩn bị dự án và tăng cường tính chủ động của chính quyền địa phương hai cấp.
Việc quy định rõ tiêu chí dân số cho từng loại đô thị trong 10 năm tới thể hiện cách tiếp cận khoa học, có tính đến đặc thù vùng miền, tránh tình trạng quy hoạch hình thức. Đồng thời, cơ chế phân định trách nhiệm rõ ràng tạo ra hành lang pháp lý minh bạch, thống nhất và có kiểm soát xã hội.
Về dài hạn, Nghị quyết không chỉ mở ra môi trường đầu tư ổn định, minh bạch, giúp tăng sức hấp dẫn với khu vực tư nhân và quốc tế, mà còn đặt nền móng cho quản lý đô thị theo hướng tích hợp, hiệu quả, giảm lãng phí nguồn lực.
PV: Theo ông, để phát triển bền vững hậu sáp nhập cần chú ý thêm những vấn đề gì?
KTS Trần Ngọc Chính: Phát triển bền vững phải gắn với bảo tồn thiên nhiên và văn hóa. Trong định hướng phát triển lâu dài, cần giữ lại những khu vực hoang sơ, tránh xây dựng ồ ạt; đồng thời bảo đảm sự cân bằng giữa đô thị hóa, du lịch, kinh tế với việc gìn giữ bản sắc văn hóa, lịch sử. Đơn cử, Tây Nguyên nay đã có không gian rộng mở hướng ra biển lớn, nhưng giá trị văn hóa Tây Nguyên phải tiếp tục được bảo tồn.
Cuối cùng, khi cấp có thẩm quyền có sự đổi mới mạnh mẽ trong tư duy quản trị quốc gia, tạo ra “một không gian phát triển mới cho cả trăm năm sau”, thì các địa phương cũng cần phải có và cần phải tạo nhịp đổi mới tư duy đồng tốc để tận dụng hiệu quả không gian rộng lớn vừa được mở ra đó.
PV: Trân trọng cảm ơn ông!