Từng buồn đến mức muốn bỏ nghề
Chúng tôi đã gặp rất nhiều ngôi nhà đồ sộ và khang trang, hàng quán sầm uất, khu chợ tấp nập người ra vào. Những chiếc nón lá của nghệ nhân Tạ Thu Hương nổi bật với nhiều mầu sắc sặc sỡ. Tôi ngồi cùng chị trong ngôi nhà giữa hàng nghìn chiếc nón.
Chị Hương nhớ, rất nhớ trong cái ký ức hồn nhiên của mình, trong căn nhà nhỏ chẳng có thứ gì đáng giá. Mẹ chị - bà Phạm Thị Nụ bây giờ đã không còn nữa, mắt kem kém, đôi tay không còn nhanh nhẹn nữa, đã uốn nắn chị những đường chỉ khâu đầu tiên. Mỗi lần đi học về hoặc rảnh rỗi, chị lại ngồi cùng mẹ trong gian nhà ấm cúng để thêu lên những chiếc nón xinh tươi mà có một thời người dân làng Chuông đã phải đổi lấy từng cân gạo để sống. Bà Nụ tay vừa cầm chiếc nón vừa nhắc nhở: “Con phải chú ý vào đường khâu, vì mũi kim có đều thì chiếc nón mới đẹp”.
Nhớ lại năm 1998, tình cờ chị gặp được một khách hàng yêu thích nón lá và ngỏ lời đặt nón xuất khẩu… gần 10 nghìn chiếc! Nhưng buồn thay, càng làm ra nhiều càng hư hỏng, những chiếc nón chất đầy trong nhà kho cứ bị ẩm mốc. Bao nhiêu công sức đầu tư, bao nhiêu vốn liếng dồn vào đó cứ cuốn phăng đi tất cả những thành quả lao động của chị và nhiều bà con khác. Chị Hương buồn đến mức chẳng muốn theo đuổi cái nghề nhọc nhằn này nữa. Chị cứ ngồi lặng lẽ trong nhà ngắm nghía những chiếc nón mà niềm hy vọng cứ vơi dần theo thời gian. Lời dặn của mẹ ngày nào vẫn trở về đâu đây trong tâm khảm như một sự động viên. Còn anh Hùng chồng chị thì cứ chạy đi chạy lại, lúc ra thành phố lúc xuống chợ huyện những mong có thêm khách đặt mua hàng.
Giữa lúc mọi thứ tưởng đi vào bế tắc, thì nhờ sự động viên kịp thời của Hiệp hội làng nghề và bà con làng Chuông, anh chị đã xuất khẩu được hơn 5.000 chiếc nón/tháng đến nhiều nước ở khu vực châu Âu, châu Á. Hôm cầm bản hợp đồng đầu tiên về nhà, cả gia đình chị không thể nào ngủ được, cứ ngơ ngác nhìn nhau không tin. Sau những tháng ngày tính toán, chị Hương quyết định dùng số tiền ít ỏi để mở rộng sản xuất và thuê thêm nhiều công nhân quanh vùng. Kết quả là sau nhiều năm, 60 nghìn chiếc nón của chị được xuất khẩu tới Nhật Bản, Pháp, Nga, Thái Lan, Hàn Quốc. Mỗi ngày trong nhà chị có khoảng 20-30 công nhân cùng làm việc. Mỗi chiếc nón có giá bán trung bình từ 50 nghìn đến 100 nghìn đồng/chiếc. Các đơn hàng nhiều hơn, dày thêm, khách đặt mua tìm đến ngày càng đông. Thành quả ấy có lúc khiến chị không ngờ tới: “Tôi cứ nghĩ như trong mơ ấy, có lúc cảm thấy rụt rè nhưng nếu không làm thì mất cơ hội”, chị Hương nói. Rồi nón làng Chuông đều đặn lên máy bay sang Nhật, rồi Hàn Quốc, Malaysia... Lần nào, trong các hội nghị văn hóa quan trọng cũng đều xuất hiện “Nón làng chuông” và cái tên nghệ nhân Tạ Thu Hương như một ấn tượng đặc biệt.
Mỗi lần có đoàn khách đến tham quan, làng Chuông lại như vào hội, khách mua hàng, nâng niu từng chiếc nón và dành cho chị những lời khen tấm tắc. Chị Hương tặng cho mỗi người một chiếc nón gọi là làm quà, không lấy tiền, số còn lại chị chỉ lấy vừa đủ với số ngày công, bất kể đó là một người không quen biết.
Gợi mở từ những người yêu văn hóa
Trong một lần đi công tác nước ngoài, có một đôi vợ chồng người Australia rất thích thú với chiếc nón lá của người Việt Nam. Họ đặt hàng với số lượng lớn. Tại cuộc gặp gỡ này, lần đầu tiên chị Hương đã có thêm ý tưởng để tạo ra thêm nhiều chiếc nón như một tác phẩm nghệ thuật, như: “Cây tre Việt Nam”, “Đôi chân đèn màu lam sẫm”, “Đôi lộc bình đắp tứ linh”, “Đôi chóe men rạn vẽ rồng màu chàm cổ”. Lại một lần khác, anh Andre, mang quốc tịch Pháp, một người rất yêu Việt Nam và say mê với chiếc nón lá đã mua 2 chiếc nón lụa và 3 chiếc nón khác thêu hình bản đồ, núi non và làng quê Việt Nam. Câu chuyện rất tình cờ và thoáng qua nhưng đã trở thành “cầu nối” giữa những người yêu văn hóa... Nhờ đó, mỗi ngày, chị không ngừng cải tiến mẫu mã để làm phong phú thêm cho các tác phẩm nghệ thuật nhỏ bé của mình. Chị cải tiến thành những chiếc nón lá bồ đề, nón lá sen, nón quai thao, nón đạo cụ và nhiều loại nón mang hồn cốt Việt Nam.
Từ hàng nghìn chiếc nón bán ra thị trường, dần dà chị đã mở rộng sản xuất, không gian trưng bày, ký kết hợp đồng và mua sắm được nhiều vật dụng phục vụ cho nghề như lá cọ, lá buông, rơm, tre, lá cối, lá hồ, lá dứa, lá dừa... Ngoài cơ sở sản xuất chính tại gia đình, mỗi năm chị còn bán ra thị trường khoảng 60 nghìn chiếc nón. Khi đơn hàng nhiều lên, năm 2000, chị thành lập cơ sở thu gom nón lá truyền thống và mở lớp dạy học làm nón miễn phí cho học sinh, sinh viên và các trường học có nhu cầu. Chị còn thành lập Hợp tác xã Mây tre nón lá rộng khoảng 5.000 m2 bao gồm một điểm du lịch làng nghề, một điểm check-in, nghỉ ngơi của khách, một điểm để xe, một điểm đóng gói hàng xuất khẩu. Cơ sở “Hương nón” trở thành điểm đến tin cậy và mang lại công ăn việc làm cho rất nhiều người trong đó có cả người già và trẻ em, với mức thu nhập trung bình 6 triệu đồng/tháng.
Nhớ lại ngày nào chị là một phụ nữ quê mùa còn lúng túng với nghề và lúc nào cũng thiếu đói. Vậy mà, đến nay chính chị cũng không tin nổi là mình có thể làm được một hợp tác xã của mấy nghìn hộ dân. Riêng ở làng chị đã có 7 thành viên cùng với nhiều vệ tinh, cho ra đời 200 mẫu mã. Chị bao tiêu rất nhiều sản phẩm vì muốn giúp đỡ bà con, với mức thu nhập tương đối ổn định vừa giải quyết thời gian rảnh rỗi vừa làm điểm gắn kết du lịch làng nghề.
Chiều đã muộn. Ở ngoài kia, những bước chân du khách vẫn lững thững đến với làng Chuông. Từ làng quê tĩnh lặng và êm đềm, tôi vẫn thấy thấp thoáng những thiếu nữ nghiêng mình trong tà áo và trên tay là chiếc nón lá không thể nào đẹp hơn.