1. Quê tôi, một làng nhỏ dưới chân núi Trà Sơn, thuộc xã Phú Lộc, huyện Can Lộc (nay là xã Trường Lưu, Hà Tĩnh). Nơi ấy có Đường 15, thuộc hệ thống Đường Trường Sơn chạy qua, có một cầu kênh nhỏ gọi là Cống 19, có trận địa pháo bảo vệ, cách Ngã ba Đồng Lộc chừng dăm, sáu cây số nên hồi còn chiến tranh, là một trọng điểm đánh phá vô cùng ác liệt.
Những đoàn quân, đoàn xe chi viện tiền tuyến chạy suốt đêm ngày thì máy bay Mỹ cũng ném bom suốt đêm ngày. Từ làng trên đến xóm dưới đều bị bom đạn cày xới, bom làm rỗ mặt những cánh đồng. Một nhà thơ đã vẽ nên hình ảnh quê tôi thời đó:
“Quê tôi ở Ngã ba Đồng Lộc
Mẹ đặt lưỡi cày chênh chếch miệng hố bom
Đèn dầu hỏa xuống hầm vào lớp học
Nghe tin những trận càn, lòng đất cháy bùng lên
Thầy nhập ngũ, rồi chúng tôi nhập ngũ
Tuổi trẻ chúng tôi như đạn xếp lên nòng
Hình Tổ quốc - khẩu AK trước ngực…”.
2. Ngày giải phóng miền nam, chú Cát về làng với thương tật 71%, thương binh hạng 2/4. Lúc ấy tôi còn nhỏ, ngày nào cũng sang nhà chú cùng say sưa nghe chuyện chiến trường. Chú thường kể cho cả làng nghe về những chiến dịch đánh giải phóng Kon Tum, về quân giải phóng Ba Tơ, những trận đánh giáp lá cà, mặt đối mặt với giặc… Nhờ trí thông minh, gan dạ chú được chỉ huy trung đoàn 52, sư đoàn 2 do Tướng Nguyễn Chơn chỉ huy giao nhiệm vụ cắm cờ giải phóng tại trung tâm quận Ba Tơ. Sau chiến công ấy, được kết nạp Đảng ngay tại mặt trận.
Theo sau chiến dịch giải phóng quận Ba Tơ, trung đoàn chú được giao nhiệm vụ vượt sông Vệ để giải phóng quận Đá Bàn. Sau trận đánh giải phóng quận Đá Bàn, chú bị thương do một viên đạn xuyên từ gò má trái sang gò má phải, rụng 9 cái răng. Chú được chuyển ra bắc điều trị, sau đó được chuyển ngành về thương nghiệp, một ngành được ưa chuộng nhất thời bao cấp vì độc quyền nắm giữ và phân phối những mặt hàng thiết yếu phục vụ cho đời sống từ dầu muối, đường sữa, vải vóc đến xe đạp…
Nhưng không hiểu vì xa quê quá lâu hoặc vì hoàn cảnh mẹ già, con nhỏ thiếu người chăm sóc; hay vì cả hai mà chú quyết định về quê, làm người dân ruộng bình thường như ngày chú ra đi.
Về làng, thấy chú Cát là người hiền lành, có một quá khứ anh hùng (đó là điều thời ấy tôn vinh hơn hết) nên nhiều gia đình muốn gả con gái cho chú. Nhưng chú lại bén duyên với cô Bảy, người làng bên, một công nhân trồng rừng Lâm trường Chúc A. Cô Bảy cũng là một cô gái rất hiền, cộng thêm đó chú Cát rất lãng mạn, có thơ tặng cô Bảy, nói yêu cô Bảy vì: “Màu em gieo là màu áo của anh”.
3. Với tác phong quân đội, tính tình dễ gần, chú được bà con tín nhiệm bầu làm đội trưởng sản xuất. Cùng thời điểm đó, có Chỉ thị 299/TTg ngày 10/11/1980 của Thủ tướng về đo đạc, phân hạng và đăng ký đất đai trong cả nước. Xóm tôi được phân công triển khai đầu tiên để rút kinh nghiệm trong toàn xã. Chiều đó, chú đi dọc đường trục xóm thông báo cho bà con xã viên nghe rõ về kế hoạch, nội dung, lịch họp xóm. Tại sân hợp tác xã (HTX), chú ví trong một trận đánh mà không có bản đồ làm sa bàn thì không biết địch đang nấp ở đâu và con đường đến trung tâm đi theo con đường nào… Vì lẽ đó, mà bà con cần có sự phối hợp tốt với cán bộ đo đạc để chỉ rõ ranh giới thửa đất.
Thực hiện Chỉ thị 100 của Ban Bí thư, cho phép giao khoán sản phẩm đến nhóm lao động và người lao động, chú là người đầu tiên tổ chức họp dân, sử dụng bản đồ giảng giải cho bà con biết về quỹ đất của làng và ý nghĩa của “khoán đến hộ”, rằng từ nay người nông dân sẽ thật sự gắn bó hơn với ruộng đồng, có quyền chủ động chăm lo thửa đất được khoán. Chú nói chậm rãi, chắc nịch: “Đất đai là của chung HTX, nhưng công sức đổ vào thì của từng nhà. Mình có làm, mình mới có ăn. Ai chăm thì được nhiều, ai lười thì ít”. Chú còn phát động phong trào san lấp hố bom, mở rộng, cải tạo diện tích đất sản xuất nông nghiệp, chiến dịch đào mương thủy lợi để dẫn nước vào đồng phục vụ sản xuất. Ruộng được cày bừa kỹ hơn, lúa được chăm bón đều tay hơn, mùa màng ngày một bội thu. Với nỗ lực của mình, chú được bầu làm Phó chủ nhiệm HTX Vĩnh Phú, kiêm trưởng ban Chính sách xã.
Đầu thập niên 90, khi Nhà nước ban hành Nghị định 64/CP về việc giao đất ổn định lâu dài cho từng hộ gia đình, chú được phân công chỉ đạo trực tiếp đội sản xuất làng tôi. Với những lần họp thâu đêm, bên ánh đèn dầu le lói, nhiều ý kiến phát biểu chú đều ghi chép đầy đủ. Sau khi hoàn thành giao đất nông nghiệp ổn định lâu dài cho bà con, chú Cát xin nghỉ ở HTX, chuyển gia đình vào sát chân núi cách làng cũ chừng 3 cây số, lập trang trại, trồng rừng và phát triển chăn nuôi tại đồi Mít. Kinh tế gia đình ngày một đi lên khá giả, con cái được đầu tư học hành đầy đủ và có nghề nghiệp ổn định, đứa trưởng thành làm giáo viên, bác sĩ, kỹ sư điện, chú ở nhà tham gia công tác địa phương và được mọi người tín nhiệm.
Hình ảnh chú Cát, một người lính già trong tôi không bao giờ phai nhạt mà càng ngày càng khắc sâu. Chú Cát không học về địa chính, môi trường hay đại học kinh tế, chính trị nào nhưng bản đồ đất đai thời ấy, sự chia ruộng thời ấy ở làng tôi đã đúng và còn đúng đến bây giờ. Không có máy móc hiện đại mà vẫn chính xác. Tôi hiểu, sự đúng đắn, chính xác của cuộc đời chỉ có thể có được từ lòng trung thực. Tôi khắc sâu tinh thần tác phong làm việc của chú, một anh bộ đội Cụ Hồ: Coi mọi việc là của dân, do dân và vì dân.