Biểu lãi suất tiền gửi tiết kiệm tại quầy hay niêm yết trên website của các ngân hàng trong nửa đầu tháng 6/2025 cho thấy xu hướng ổn định. (Nguồn VPBank)
Biểu lãi suất tiền gửi tiết kiệm tại quầy hay niêm yết trên website của các ngân hàng trong nửa đầu tháng 6/2025 cho thấy xu hướng ổn định. (Nguồn VPBank)

Đằng sau con số 1 triệu tỷ đồng

Đây là lượng tiền mà các ngân hàng đã “bơm” vào nền kinh tế trong 5 tháng đầu năm. Thống kê sơ bộ này của Ngân hàng Nhà nước phần nào cho thấy sự phục hồi của doanh nghiệp. Tuy vậy, dòng vốn chảy đến khu vực nào lại là vấn đề đáng nói…

Thanh khoản dồi dào, ngân hàng dư vốn rẻ

Thời gian gần đây, Ngân hàng Nhà nước thường xuyên ở trạng thái hút ròng khi hệ thống ngân hàng đã phát đi tín hiệu về sự dồi dào thanh khoản tiền đồng Việt Nam, tâm lý trên thị trường tiền tệ được củng cố, mặt bằng lãi suất liên ngân hàng giảm. Đơn cử, lãi suất liên ngân hàng qua đêm duy trì ổn định quanh mức trung bình 3,81% trong phần lớn thời gian của tháng 5. Song, những ngày cuối tháng 5, đã có sự đảo chiều rõ rệt khi lãi suất qua đêm giảm mạnh, xuống mức 2,93%, tương đương giảm 0,9 điểm % so tháng kề trước.

Thực tế, Ngân hàng Nhà nước tiếp tục duy trì mặt bằng lãi suất điều hành hiện nay nhằm hỗ trợ cho các ngân hàng ổn định mặt bằng lãi suất huy động và cho vay trong thời gian tới. Biểu lãi suất tiền gửi tiết kiệm tại quầy (lãi suất huy động) niêm yết trên website của các ngân hàng như: BIDV, Vietcombank, VietinBank, Agribank, VPBank, Techcombank, SHB, BacABank, TPBank… trong nửa đầu tháng 6 này là minh chứng cho việc lãi suất huy động tại hầu hết các kỳ hạn được khảo sát có xu hướng ổn định.

Trong khi đó, báo cáo tài chính trong quý I/2025 của các ngân hàng cho thấy nhiều tổ chức tín dụng ghi nhận mức tăng trưởng cao về vốn huy động, như VPBank ghi nhận tổng số dư tiền gửi tăng tới 13,7% so cuối năm 2024. Nhóm các ngân hàng thương mại cổ phần nhà nước vẫn giữ vị thế đứng đầu: BIDV tiếp tục giữ vị trí số 1 với hơn 1,9 triệu tỷ đồng tiền gửi, tăng 1,22% so cuối năm 2024; VietinBank và Vietcombank theo sau với quy mô lần lượt là hơn 1,6 triệu tỷ đồng và hơn 1,5 triệu tỷ đồng.

Theo các chuyên gia, có một thực tế, mặc dù lãi suất huy động ở mức thấp nhưng kênh gửi tiết kiệm vẫn hấp dẫn với người dân chính bởi tâm lý muốn tìm nơi đầu tư an toàn trong bối cảnh nền kinh tế biến động khó lường. Trong khi đó, thị trường tài chính hiện thiếu kênh đầu tư thay thế hấp dẫn, thị trường chứng khoán, bất động sản biến động khó lường, nên kênh gửi tiết kiệm ngân hàng trở thành sự lựa chọn của nhiều người bởi tính thanh khoản và độ an toàn cao.

Vẫn vướng chuyện tài sản bảo đảm

Thống kê mới nhất của Ngân hàng Nhà nước cho thấy, tính đến cuối tháng 5/2025, tín dụng toàn nền kinh tế tăng 6,52%, cao hơn so mức 2,41% cùng kỳ năm 2024. Trong khi đó, trên thị trường liên ngân hàng, lãi suất hiện đã ở vùng 2,71%, mức thấp nhất kể từ đầu năm đến nay. Chỉ số này, theo quan điểm của giới phân tích tài chính, phản ánh rõ tình trạng thanh khoản hệ thống đang dư thừa.

Về vấn đề này, Tiến sĩ Nguyễn Quốc Hùng, Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam cho rằng, mặt bằng lãi suất thấp là yếu tố then chốt giúp doanh nghiệp, hộ kinh doanh, hợp tác xã giảm chi phí vốn, là động lực chính thúc đẩy nhu cầu vay vốn, đặc biệt trong bối cảnh các doanh nghiệp đang trên đà phục hồi hoạt động sản xuất, kinh doanh.

Tuy nhiên, điều nghịch lý dường như còn nguyên đó khi mà nguồn vốn thì có, song số đông doanh nghiệp, đặc biệt doanh nghiệp nhỏ và vừa vẫn không thể tiếp cận được. Ông Nguyễn Văn Thắng, Giám đốc tài chính Công ty Quỳnh Mai chia sẻ, dù có cơ hội tiếp cận được vốn ngân hàng, nhưng để bảo đảm nguồn vốn hoạt động, công ty vẫn phải sử dụng và huy động từ nguồn vốn vay bên ngoài. Rào cản lớn nhất trong tiếp cận vốn vẫn là thủ tục vay phức tạp đi kèm các điều kiện về tài sản bảo đảm, thời gian thuê đất ngắn…

Đẩy mạnh số hóa để "nắn dòng" tín dụng

Chuyên gia kinh tế Nguyễn Văn Thịnh, giảng viên cao cấp Đại học Thương mại cho rằng, ngân hàng nào cũng ưu tiên cho vay những khách hàng sở hữu tài sản thế chấp có giá trị cao và hồ sơ tín dụng tốt là điều dễ hiểu và đúng luật. Tuy vậy, điều tất yếu sẽ là “tín dụng có tăng nhưng dòng tín dụng không được phân bổ đồng đều giữa các ngành, các loại hình doanh nghiệp. Đây là vòng luẩn quẩn chưa có giải pháp tháo gỡ triệt để”, ông Thịnh đặt vấn đề.

Để hóa giải được vấn đề này, cần sự điều chỉnh từ cả hai phía. Trước hết, doanh nghiệp cần xây dựng báo cáo tài chính minh bạch, chủ động xây dựng kế hoạch kinh doanh đồng bộ phương án sử dụng vốn hiệu quả để tạo niềm tin và thuyết phục ngân hàng cho vay.

Về phía ngân hàng, cần có các sản phẩm tài chính chuyên biệt như: khoản vay tín chấp dựa trên dòng tiền kinh doanh, khoản vay dựa trên tài sản hình thành từ vốn vay, hay khoản vay theo hợp đồng đầu ra... Ngoài ra, các ngân hàng cũng cần mở rộng mô hình đánh giá tín dụng dựa trên dữ liệu giao dịch thực tế thay vì chỉ tập trung vào tài sản bảo đảm.

Những gợi mở của chuyên gia Nguyễn Văn Thịnh hoàn toàn khả thi nếu soi vào thực tế hoạt động của các ngân hàng thương mại giai đoạn hiện nay. Như lời của Phó Tổng giám đốc MSB Đinh Thị Tố Uyên, ngân hàng này đã tận dụng triệt để hệ thống dữ liệu từ hệ thống thuế, hóa đơn, cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư để ra quyết định cho vay qua kênh ngân hàng số, với thời gian xét duyệt chỉ trong vài phút. Tại VietinBank, dựa trên nền tảng VietinBank eFAST, ngân hàng đã thực hiện hơn 87.000 giao dịch giải ngân online cho khách hàng doanh nghiệp, với tổng giá trị hơn 270.000 tỷ đồng.

Bên cạnh việc triển khai hiệu quả các dịch vụ số đa tiện ích, một số ngân hàng còn điều chỉnh giảm lãi suất trực tuyến, như: VPBank giảm 0,1% ở tất cả các kỳ hạn; GPBank giảm 0,1% cho các kỳ hạn 6-8 tháng...

Những nỗ lực nói trên không chỉ giúp doanh nghiệp rút ngắn quy trình, thủ tục tiếp cận vốn vay mà còn tiết giảm chi phí vận hành của chính ngân hàng, từ đó tạo điều kiện tiếp tục cân đối giảm lãi suất cho vay để hỗ trợ nền kinh tế theo chỉ đạo của Ngân hàng Nhà nước và Chính phủ

Với khoản vay ngắn hạn có lãi suất khoảng 5%/năm; vay trung, dài hạn quanh 7%/năm, các chuyên gia nhìn nhận, đây là mức vốn rẻ. Tuy vậy, doanh nghiệp nhỏ và vừa hiện mới chỉ tiếp cận được chưa đến 20% tổng dư nợ, cho thấy sự chênh lệch trong tiếp cận vốn vẫn còn lớn.

Xem thêm