Tuy nhiên, đằng sau những tín hiệu tích cực ấy, khu vực kinh tế tư nhân vẫn tồn tại một khoảng trống lớn trong lĩnh vực đầu tư cho nghiên cứu và phát triển (R&D).
Những con số biết nói
Theo Bộ Khoa học và Công nghệ, 84,1% nhân lực cho lĩnh vực R&D của Việt Nam hiện làm việc trong khu vực nhà nước, chỉ 13,8% thuộc khu vực tư nhân và 2,1% trong doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Trong khi đó, tại Hàn Quốc - đất nước được xem là "hình mẫu R&D châu Á" hiện có hơn 75% tổng chi cho R&D đến từ khu vực tư nhân (số liệu từ Tổ chức Hợp tác và Phát triển quốc tế - OECD). Nhờ khoản đầu tư này, các tập đoàn lớn như Samsung, Huyndai hay LG có thể bứt phá làm chủ nhiều công nghệ mới.
Ở Việt Nam mức đầu tư cho R&D của các doanh nghiệp còn khá khiêm tốn, với tổng chi cho R&D mới đạt khoảng 0,53% GDP, thấp hơn khá nhiều so mức trung bình của thế giới, khoảng 2,4%. Số liệu được trích dẫn từ Báo cáo Đổi mới sáng tạo toàn cầu 2024 (WIPO) này đã cho thấy khoảng trống đầu tư cho lĩnh vực R&D của doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt trong khu vực tư nhân, nơi đáng ra phải là động lực của đổi mới sáng tạo.
Lý giải về thực trạng này, không ít lãnh đạo doanh nghiệp thừa nhận đầu tư cho R&D giống như "bỏ tiền vào khoảng không" khi hiệu quả không thấy được ngay, mà rủi ro lại quá cao.
Theo quy định hiện hành, doanh nghiệp có thể trích tối đa 10% thu nhập trước thuế để lập quỹ phát triển khoa học-công nghệ. Nguồn phí này được phép chi cho các hoạt động R&D, thử nghiệm, kiểm định, đào tạo nhân lực R&D hoặc đầu tư cho khởi nghiệp công nghệ (tối đa 5% vốn quỹ).
Tại Hội nghị "Doanh nghiệp Việt trước vận hội mới", do Hiệp hội Phát triển Hàng tiêu dùng Việt Nam (VACOD) tổ chức mới đây, ông Đào Ngọc Chiến, Giám đốc Quỹ Phát triển Khoa học và Công nghệ Quốc gia (NAFOSTED) đã bày tỏ quan điểm, quỹ phát triển khoa học-công nghệ là công cụ tài chính đặc thù, linh hoạt và dài hạn. Doanh nghiệp có quỹ riêng không chỉ chủ động trong nghiên cứu mà còn mở rộng cơ hội đồng tài trợ từ các chương trình quốc gia.
Tuy nhiên, số liệu từ Bộ Khoa học và Công nghệ cho thấy tỷ lệ doanh nghiệp thành lập quỹ nội bộ vẫn rất thấp. Tính đến cuối năm 2024, chỉ khoảng 3% doanh nghiệp Việt Nam có quỹ phát triển khoa học-công nghệ hoạt động hiệu quả. Trong khi tại Nhật Bản hay Israel, phần lớn các tập đoàn công nghiệp đều có quỹ riêng cho R&D, họ coi đó là "trái tim" của chiến lược phát triển.
Mặt khác, bà Phạm Thị Thu Hằng, nguyên Tổng Thư ký Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) nhận định, dù Nhà nước đã có nhiều chính sách đổi mới công nghệ, song việc tiếp cận vẫn còn khá phức tạp. Doanh nghiệp thiếu cơ sở vật chất, thiếu phòng thí nghiệm, trong khi cơ chế đặt hàng nghiên cứu còn chậm, thiếu đồng bộ.
Ngoài ra, thủ tục liên quan đến loại quỹ này cũng khiến không ít doanh nghiệp e ngại. Bởi thực tế, "nhiều doanh nghiệp không biết cách lập, quản lý hay sử dụng quỹ như thế nào cho đúng. Họ lo về quyết toán, kiểm toán, và sợ rủi ro nếu đầu tư sai", ông Chiến cho biết thêm.
Giải pháp cốt lõi vẫn là "bắc những nhịp cầu"
Để doanh nghiệp có thể thành lập và vận hành quỹ khoa học-công nghệ một cách hiệu quả, ông Chiến đã đưa ra nhiều giải pháp cụ thể. Thứ nhất, ban hành quy chế nội bộ rõ ràng về mục tiêu, phạm vi và cơ chế sử dụng. Thứ hai, thành lập hội đồng tư vấn khoa học, gồm các chuyên gia có kinh nghiệm trong lĩnh vực công nghệ, đổi mới sáng tạo. Thứ ba, lập danh mục dự án công nghệ, để theo dõi hiệu quả, kiểm soát chi phí. Thứ tư, tăng hợp tác với các viện/trường để tận dụng chuyên môn, cơ sở vật chất phục vụ nghiên cứu.
Chia sẻ sự đồng tình với giải pháp thứ tư mà ông Chiến đưa ra, PGS, TS Vũ Văn Tích, Phó Giám đốc Học viện Chiến lược Khoa học và Công nghệ, nhấn mạnh, rất cần sự hợp tác thực chất giữa ba bên: nhà nước kiến tạo, nhà khoa học cung cấp tri thức và doanh nghiệp đầu tư, ứng dụng. Nếu không hành động, chúng ta mãi dừng ở mục tiêu đặt ra.
Trên thế giới, mô hình Triple Helix (ba vòng xoắn), với sự hợp tác chặt chẽ giữa "Nhà nước-viện/trường-doanh nghiệp" đã được coi là nền tảng tạo nên sự phát triển bền vững. Tại Việt Nam, mô hình này đang được khuyến khích triển khai với nhiều cơ chế mới. Nhà nước đóng vai trò "kiến tạo", đặt hàng nghiên cứu chiến lược; viện/trường làm đầu mối chuyển giao tri thức; doanh nghiệp là bộ máy ứng dụng, đưa kết quả nghiên cứu vào sản xuất.
Tuy nhiên, PGS, TS Vũ Văn Tích cũng cảnh báo, mối liên kết này ở Việt Nam vẫn yếu và thiếu cầu nối thực chất. Nhiều nghiên cứu vẫn "nằm trong ngăn tủ", không đi được vào đời sống do thiếu sự tham gia ngay từ đầu của doanh nghiệp, đối tượng thụ hưởng.
Để khắc phục tình trạng ấy, Bộ Khoa học và Công nghệ đang xây dựng đề án hỗ trợ trung tâm đổi mới sáng tạo cấp vùng, tạo một cầu nối đưa doanh nghiệp với viện/trường nghiên cứu đến gần nhau hơn. Cùng với đó là cơ chế "đặt hàng ngược", cho phép doanh nghiệp đề xuất nhu cầu nghiên cứu, sau đó Nhà nước hỗ trợ tài chính đồng tài trợ, nhằm thúc đẩy ứng dụng thực tiễn, giảm rủi ro.
Trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang làm thay đổi căn bản các mô hình sản xuất, kinh doanh và quản trị trên quy mô toàn cầu, khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo đã vượt qua vai trò là một lĩnh vực riêng lẻ để trở thành động lực chính, quyết định năng lực cạnh tranh, tốc độ phát triển và vị thế của mỗi quốc gia. Do đó, chỉ khi bộ ba "nhà khoa học-doanh nghiệp-Nhà nước" được kết nối chặt chẽ mới góp phần thúc đẩy phát triển và tạo ra các giá trị thực tiễn".
PGS,TS Vũ Văn Tích,
Phó Giám đốc Học viện Chiến lược
Khoa học và Công nghệ, Bộ Khoa học và Công nghệ