Ông Trần Hoàng, Cục trưởng Bản quyền tác giả (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch)
Ông Trần Hoàng, Cục trưởng Bản quyền tác giả (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch)

Xác định chiến lược thực thi chủ động, hợp lý

Việt Nam đã có những bước tiến quan trọng trong xây dựng pháp luật, tham gia các điều ước quốc tế và từng bước nâng cao nhận thức xã hội về bản quyền, song, vẫn tồn tại nhiều nút thắt cần tháo gỡ.

Ông Trần Hoàng, Cục trưởng Bản quyền tác giả (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) đã có chia sẻ cởi mở xoay quanh những thách thức, giải pháp và tầm nhìn cho hệ sinh thái bản quyền trong giai đoạn tới.

Một “chìa khóa” cho hội nhập và phát triển

- Thưa ông, trong bối cảnh hội nhập quốc tế diễn ra ngày càng sâu rộng, ông đánh giá thế nào về vai trò của quyền tác giả, quyền liên quan đối với sự phát triển kinh tế- văn hóa-xã hội ở Việt Nam?

- Quyền tác giả, quyền liên quan bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của tác giả, người biểu diễn, chủ sở hữu quyền tác giả, quyền liên quan, cũng là động lực quan trọng thúc đẩy sự phát triển toàn diện về kinh tế, văn hóa và xã hội trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Có thể nhìn nhận trên ba vai trò chính: Phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và bối cảnh hội nhập quốc tế. Trong vai trò phát triển kinh tế, có thể thúc đẩy phát triển công nghiệp văn hóa dựa vào bản quyền, đóng góp vào GDP, thu hút đầu tư nước ngoài. Về văn hóa, xã hội, góp phần bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc, xây dựng xã hội tôn trọng tri thức. Đặc biệt, trong bối cảnh toàn cầu hóa, việc cam kết bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan là một trong những yêu cầu, đòi hỏi để đánh giá năng lực hội nhập của một quốc gia và các chuẩn mực pháp lý của quốc gia đó. Việt Nam là thành viên của 8/9 điều ước quốc tế đa phương về quyền tác giả, quyền liên quan; chúng ta đã ký kết ba hiệp định song phương với Hoa Kỳ và Thụy Sĩ về bản quyền và sở hữu trí tuệ; ký kết sáu hiệp định kinh tế, thương mại tự do giữa Việt Nam với các đối tác. Việc thực thi các cam kết về bản quyền không chỉ là nghĩa vụ, mà còn là vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Nhìn một cách tổng thể, đây là “chìa khóa” để chúng ta xây dựng một xã hội sáng tạo, văn minh và hội nhập.

- Nhiều ý kiến cho rằng, ngay cả khi khung pháp lý đã đầy đủ nhưng nếu khâu thực thi còn hạn chế, thiếu chiến lược thì vấn đề bản quyền vẫn luôn có khoảng trống lớn?

- Việt Nam đã ban hành Luật Sở hữu trí tuệ và văn bản hướng dẫn thi hành, đã và đang sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật, cơ bản phù hợp với các cam kết quốc tế và tình hình thực tiễn. Tuy nhiên, vẫn còn diễn ra tình trạng vi phạm bản quyền, ở cả môi trường thực và môi trường số. Chúng ta đang đối diện với một số thách thức về thực thi gồm: Nhận thức, ý thức cộng đồng; tổ chức bộ máy thực thi; ứng dụng công nghệ trong quản lý bản quyền, thực thi trên môi trường số chưa đáp ứng nhu cầu. Do vậy, cần có chiến lược thực thi phù hợp từng thời kỳ, có trọng tâm, trọng điểm. Tôi cho rằng, trong bối cảnh hiện nay, chiến lược thực thi cần tập trung vào thực thi trên môi trường số như: Truyền thông đến các nhóm đối tượng với cách thức phù hợp, hấp dẫn; nâng cao năng lực cho lực lượng thực thi pháp luật, đặc biệt trên môi trường số; xây dựng chiến lược dài hạn, kết hợp tuyên truyền, giáo dục và áp dụng công nghệ; tăng cường ứng dụng công nghệ trong quản lý bản quyền, xử lý vi phạm bản quyền, đặc biệt trên môi trường số.

- Hiện nay, nhiều tác phẩm, công trình nghiên cứu, giáo trình, dữ liệu số là tài sản trí tuệ có giá trị. Theo ông, ở Việt Nam đã có ý thức quản lý, khai thác bản quyền hiệu quả chưa?

- Có thể nói, ý thức quản lý và khai thác bản quyền trong thời gian qua có những tiến bộ. Nhiều trường đại học, viện nghiên cứu đã bắt đầu chú trọng đến việc xây dựng kho học liệu số, gắn mã định danh tài liệu, ban hành quy chế quản lý tài sản sở hữu trí tuệ trong nội bộ của trường, viện, định kỳ chuẩn hóa dữ liệu học liệu cũng như ký kết thỏa thuận hợp tác chia sẻ học liệu giữa các cơ sở nghiên cứu, đào tạo… Đây là tín hiệu tích cực cho thấy nhận thức về giá trị của tài sản trí tuệ đang thay đổi. Muốn khai thác hiệu quả hơn, cần vừa nâng cao nhận thức của chính cơ sở nghiên cứu đào tạo, tác giả và nhóm đối tượng thụ hưởng, vừa xây dựng cơ chế thuận lợi trong việc tiếp cận, khai thác và chia sẻ lợi ích giữa cơ sở nghiên cứu đào tạo-tác giả-đơn vị sử dụng. Khi đó, tài sản trí tuệ mới thật sự trở thành nguồn lực quan trọng cho phát triển kinh tế-xã hội.

z7019721000900-1d37766a3c1f0b29d3a4d9bfa15b1c8c.jpg
Trong bộ sách Truyện kể trước khi ngủ, có nhiều tác phẩm là sáng tác nhưng đã bị “hô biến” thành “sưu tầm”.

Hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo hộ quyền tác giả

- Trước sự bùng nổ của trí tuệ nhân tạo, vấn đề bản quyền trở nên phức tạp hơn. Theo ông, những thách thức lớn nhất mà Việt Nam phải đối mặt trong bảo hộ quyền tác giả thời công nghệ 4.0 là gì?

- Sự phát triển bùng nổ của trí tuệ nhân tạo (AI), đã mở ra nhiều cơ hội nhưng đồng thời cũng đặt ra những vấn đề bản quyền. Sau khi thu nhận lượng dữ liệu đồ sộ là các tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả, AI có thể tạo nhạc, viết văn, vẽ tranh… Thế giới đã có vụ kiện liên quan đến việc AI sử dụng dữ liệu có bản quyền để huấn luyện mà không xin phép tác giả, đặc biệt trong lĩnh vực hình ảnh và văn viết. Một số vấn đề đang tranh luận: Có hay không công nhận tác giả và chủ sở hữu quyền đối với một tác phẩm do AI tạo ra? Quyền đó thuộc về nhà phát triển phần mềm, người cung cấp dữ liệu huấn luyện hay người sử dụng AI? Việc sử dụng những dữ liệu huấn luyện AI lấy từ các đối tượng được bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan có phải xin phép không? Có phải trả tiền bản quyền không? Có là hành vi vi phạm không? Việc truy tìm bằng công nghệ về AI sao chép “ngầm” tác phẩm nào để tạo ra sản phẩm của mình có thực hiện được hay không? Việc giám sát vi phạm như thế nào do tính chất tự động và quy mô lớn của hoạt động AI. Cần thiết nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế trong xử lý vấn đề AI và bản quyền, ban hành hướng dẫn pháp lý phù hợp với bối cảnh mới, bảo đảm cân bằng lợi ích giữa tác giả, cộng đồng và phát triển công nghệ.

- Trong tầm nhìn dài hạn, ông hình dung một hệ thống pháp luật bản quyền lý tưởng ở Việt Nam sẽ có “diện mạo” thế nào?

- Hệ thống pháp luật bản quyền Việt Nam cần không chỉ sửa đổi luật để đáp ứng các cam kết, mà còn phải hướng tới một hệ thống pháp luật về bản quyền hiện đại, minh bạch, khuyến khích sáng tạo, hài hòa lợi ích giữa các chủ thể sáng tạo, chủ thể khai thác và cộng đồng, thúc đẩy phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội. Một số phác họa về hệ thống pháp luật bản quyền gồm: Phù hợp với chuẩn mực quốc tế đã cam kết (Berne, TRIPS, WCT…), nhưng được “Việt Nam hóa” để đáp ứng điều kiện thực tiễn trong nước; bảo đảm phân chia lợi ích hợp lý giữa tác giả, nhà sản xuất, nhà phân phối và người tiêu dùng. Đồng thời, duy trì cơ chế ngoại lệ hợp lý để bảo đảm quyền tiếp cận tri thức cho cộng đồng, phát triển công nghệ đổi mới sáng tạo; gắn kết với chiến lược phát triển quốc gia về công nghiệp văn hóa, công nghiệp sáng tạo: Hệ thống bảo hộ quyền tác giả phải trở thành một trụ cột trong phát triển kinh tế số, công nghiệp văn hóa và khích lệ việc xây dựng xã hội học tập. Một hệ thống pháp luật về bản quyền lý tưởng ở Việt Nam cần hội tụ ba yếu tố: “Chuẩn mực quốc tế-Phù hợp thực tiễn-Hướng tới tương lai”. Trong năm 2025 này, Bộ Khoa học và Công nghệ chủ trì, phối hợp Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Bộ Nông nghiệp và Môi trường cùng các cơ quan liên quan xây dựng báo cáo Chính phủ, trình Quốc hội thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ theo trình tự, thủ tục rút gọn. Chúng tôi đang nỗ lực nghiên cứu, đề xuất sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện để các quy định pháp luật về quyền tác giả, quyền liên quan ngày càng đáp ứng các yêu cầu trên. Về lâu dài, chúng tôi mong muốn có thể tách thành Luật Bản quyền tác giả độc lập theo thông lệ quốc tế.

- Ông kỳ vọng điều gì ở hệ sinh thái bản quyền của Việt Nam trong giai đoạn tới, khi thế hệ sáng tạo trẻ ngày nay trở thành lực lượng chủ đạo?

- Thế hệ sáng tạo trẻ của Việt Nam - từ các nghệ sĩ, nhà nghiên cứu, doanh nhân công nghệ cho tới cộng đồng khởi nghiệp - đang ngày càng đóng vai trò trung tâm trong nền kinh tế sáng tạo. Đây là lực lượng nhạy bén với công nghệ, tâm huyết với văn hóa Việt, dám nghĩ dám làm và có khát vọng hội nhập toàn cầu. Để họ phát huy hết tiềm năng, hệ sinh thái bản quyền đóng vai trò then chốt, góp phần bảo vệ, khuyến khích sáng tạo; gắn kết công nghệ; hỗ trợ phát triển thương mại và nuôi dưỡng tinh thần sáng tạo. Chúng tôi kỳ vọng hệ sinh thái bản quyền của Việt Nam trong giai đoạn tới sẽ trở thành “bệ phóng” vững chắc cho thế hệ trẻ, lực lượng sáng tạo chủ đạo. Từ đó, họ sẽ tạo ra những sản phẩm văn hóa, nghệ thuật, khoa học, công nghệ giá trị, góp phần đưa Việt Nam trở thành một quốc gia có thế mạnh về tri thức và sáng tạo.

- Cảm ơn ông về cuộc trao đổi thẳng thắn!

Xem thêm